PTH là một mạch polypeptid lớn, chứa 115 axit amin. Theo Rasmussen thì trọng lượng phân tử hormon này khoảng 8.6000. PTH bị phá huỷ khi đun sôi với axit hoặc kiềm. Tác dụng sinh lý của parathyroxine là làm tăng can xi huyết và giảm photpho huyết. Cơ chế tác động của nó là vừa tác dụng lên xương vừa tác dụng lên thận.
Nồng độ canxi huyết là nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến sự điều hoà hoạt động của tuyến cận giáp. Khi nồng độ canxi huyết giảm sẽ kích thích vào thụ quan hoá học ở thành mạch máu, nhất là ở cung động mạch chủ và túi động mạch cổ. Luồng xung động thần kinh truyền vào vùng dưới đồi và từ đấy luồng xung động truyền ra kích thích tuyến giáp tăng tiết parathyroxine để làm tăng nồng độ canxi huyết cho đến mức đạt nồng độ sinh lý thì dừng. Khi nồng độ can-xi huyết tăng, thì cơ chế trên sẽ ngược lại, làm giảm bài tiết parathyroxine.Cũng có một con đường khác là nồng độ can-xi huyết thay đổi khi đi theo dòng máu qua tuyến cận giáp cũng ảnh hưởng đến hoạt động của tuyến.
(Hình ảnh tuyến giáp và tuyến cận giáp)
Giúp cho chẩn đoán tình trạng rối loạn chức năng tuyến cận giáp (cường chức năng và suy chức năng).
Xét nghiệm được chỉ định để đánh gỉá các bệnh nhân có nồng độ canxi máu bất thường và để theo dõi các tình trạng bệnh lý có thể có tác động tới nồng độ canxi máu (Vd: suy thận mạn).
Xét nghiệm được thực hiện trên huyết tương. Bệnh nhân được yêu cầu nhịn ăn 8 – 10h trước khi lấy máu xét nghiệm. Nồng độ PTH thay đổi trong ngày (nồng độ đỉnh xảy ra vào khoảng 2h sáng). Mẫu bệnh phẩm thường được lấy vào khoảng 8h sáng.
10 – 60 pg/ml hay 10 – 60 ng/L.
Các nguyên nhân chính thường gặp
Các nguyên nhấn chính thường gặp
Hormon cận giáp (PTH) là một hormon làm tăng nồng độ canxi máu được các tuyến cận giáp sản xuất. PTH đóng vai trò chính trong duy trì nồng độ canxi và phospho trong cơ thể. Tình trạng cân bằng này được thực hiện thông qua quá trình kích thích ruột hấp thu canxi, tăng huy động canxi và phospho từ xương và ống thận tăng tái hấp thu canxi và bài tiết phospho.
PTH thoái giáng thành 3 đoạn phân tử bao gồm đoạn tận N (N-terminal), đoạn tận C (C-terminal) và đoạn ở giữa. Tuy nhiên, PTH nguyên vẹn (dạng có hoạt tính sinh học chính) là dạng hormon thường được định lượng. Nồng độ trong máu của hormon này phản ánh hoạt động chức năng của tuyến cận giáp và phụ thuộc vào nồng độ canxi máu.
Các kết quả thấp giả tạo có thể xảy ra sau khi bệnh nhân uống sữa. Một số yếu tố có thể có tác động tới nồng độ PTH: Có thai, đang trong thời kì cho con bú, tăng lipid máu và dùng chất đồng vị phóng xạ để chụp xạ hình trong vòng 1 tuần trước đó.
Các thuốc có thể làm tăng nổng độ PTH: Thuốc chống co giật, furosemid, isoniazid, lithium, rifampin, steroid, thuốc lợi tiểu loại thiazid và các thuốc có chứa phosphat.
Các thuốc có thể làm giảm nồng độ PTH: Cimetidin, propranolol.
Xét nghiệm rất hữu ích để chẩn đoán các tình trạng cường chức năng và suy chức năng tuyến cận giáp, nhất là khi tiến hành đổng thời các xét nghiệm đánh gỉá chuyển hóa phospho-canxi và chức năng thận (creatinin máu).
Các tình trạng tăng canxi máu do ung thư rất hãn hữu có đi kèm với tăng nồng độ PTH máu.
Không nên đánh giá đơn độc nồng độ PTH, do PTH có tác động tới cả nồng độ canxi và phospho, vì vậy cũng thường cần được đánh giá nồng độ của cả hai ion này. Do chức năng thận có thể có tác động tới nồng độ PTH, do đó cũng cần theo dõi nồng độ creatinin huyết thanh. Tóm lại, cần định lượng nồng độ canxi, phospho huyết thanh và nồng độ PTH trong huyết tương ở tất cả các bệnh nhân bị bệnh thận mạn tính có mức lọc cầu thận < 60ml/min/1,73 m2.
Khi có tăng nồng độ PTH và canxi huyết thanh, bệnh nhân có nguy cơ bị các tình trạng bệnh lý như:
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh