PHÁP HÃN.
Là dùng thuốc làm cho ra mồ hôi đưa tác nhân gây bệnh ra ngoài, thường được chỉ định khi tà khí còn ở biểu chứng, chủ yếu điều trị các chứng bệnh do ngoại cảm (lục dâm) gây nên, thuốc theo pháp này được chọn dùng theo 2 loại: cay mát (tân lương), cay ấm (tân ôn).
Các vị thuốc cay ấm để điều trị ngoại cảm phong hàn thường trọng dụng các vị: sài hồ, cát căn, thăng ma, ngưu bàng tử, tang diệp, bạc hà, cúc hoa, phù bình. Đặc điểm của thuốc là làm cho ra mồ hôi, nếu ra mồ hôi nhiều (đại hãn) sẽ làm giảm khối lượng máu lưu hành và rối loạn điện giải ảnh hưởng đến nhịp đập của tim (tâm quý, tâm thống). Thuốc có nhiều tinh dầu thơm, nên không được sắc lâu và khi đạt hiệu quả thì ngừng thuốc hoặc nếu muốn tiếp tục dùng phải phối hợp với thuốc bổ âm hoặc dưỡng âm như huyền sâm, sinh địa, mạch môn, thiên hoa phấn, với người già cần thận trọng phối hợp với bổ âm phải tiếp dương.
Không được dùng khi bệnh nhân nôn nhiều, mất máu nhiều, mất nước, về liều lượng thì mùa hè thường dùng liều thấp hơn mùa đông, tuỳ theo phản ứng của trạng thái cơ thể với thuốc.
PHÁP THỔ.
Là dùng thuốc gây nôn, đưa bệnh tà ra ngoài bằng mồm được chỉ định khi uống, ăn phải chất độc hoặc uống nhầm thuốc độc, thực tích, ăn nhiều thức ăn sống lạnh, bụng thường đầy, muốn nôn. Thường dùng các thuốc gây nôn hoặc ngoáy họng gây nôn. Không được áp dụng đối với người suy tim, thai sản, thai phụ quá yếu, khi đạt hiệu quả thì ngừng.
PHÁP HẠ.
Là làm thông đại tiện, thông tích trệ ở đại trường, chỉ định trong táo bón kéo dài, nhiệt tích ở đại trường, đờm kết, tích thủy, tích huyết. Ngoài tác dụng thông đại tiện, các thuốc thông hạ còn có tác dụng lợi mật, tháo phù dịch cổ chướng, hạ huyết áp tâm trương, chống nhiễm độc thần kinh, đau đầu, mất ngủ. Chỉ định loại thuốc và liều lượng phải dựa vào trạng thái cơ thể người bệnh. Trạng thái hàn thường dùng loại thuốc ôn hạ, nhuận hạ như ba đậu xương, lưu hoàng thủy phi, qua lâu nhân, hắc ma nhân. Trạng thái cơ thể nhiệt thường dùng thuốc hàn hạ như đại hoàng, phác tiêu, mang tiêu, chút chít (thổ đại hoàng) lô hội…
Chú ý: người già, dương khí suy yếu thường phải dùng nhuận hạ hoặc dưỡng phế âm, bổ tôn khí để hoạt trường vị, muốn tăng hiệu quả phải phối hợp với thuốc bổ dương khí. Thuốc tả hạ để hoạt trường vị, muốn tăng hiệu quả phải phối hợp với thuốc bổ dương khí. Thuốc tả hạ thường gây mất nước và điện giải không nên dùng cho người có thai, rong kinh, khi đạt hiệu quả phải ngừng thuốc. Trường hợp bệnh nhân xơ gan cổ chướng mà chức năng thận bị ảnh hưởng, người xưa thường mượn đường đại tiện để đưa nước cố chướng ra ngoài, vì phần lớn thuốc hạ đều có phân tử lượng, kéo nước từ lòng đại tràng vào và tống ra ngoài, cần thận trọng khi sử dụng, không có kinh nghiệm thì không nên dùng kéo dài.
PHÁP HOÀ.
Thực chất là hoà giải biểu lý, kết hợp giữa nâng cao chính khí với đuổi tà khí, các thuốc được chọn dùng đều có tác dụng điều trị chứng bán biểu bán lý khi tà xâm phạm kinh thiếu dương, thái dương và dương minh hoặc các chứng can vị bất hoà, can khí uất kết, rối loạn kinh nguyệt. Các thuốc thường dùng: sài hồ, hoàng cầm, đẳng sâm, bán hạ, cam thảo, đại táo, sinh khương (biểu lý đồng trị). Nếu can huyết hư dùng thêm đương quy, bạch thược, nếu tỳ hư dùng thêm bạch truật, bạch linh, bạch hà, sinh khương, bệnh tà ở biểu hoặc ở lý không nên dùng.
PHÁP ÔN.
Là dùng thuốc ôn dương tán hàn hoặc khu hàn thường được chỉ định khi tác nhân gây bệnh là hàn tà nhập vào lý hoặc xâm phạm các kinh âm. Thuốc ôn ấm được chỉ định rộng rãi trong các chứng huyết áp thấp, các chứng đau mỏi khớp, thần kinh do lạnh, thường chọn các vị: can khương, bạch truật, cam thảo chích, hắc phụ tử, sa nhân, xuyên tiêu, nhục quế, ngô thù du… trong trường hợp lý nhiệt không được dùng, nếu hư hiệt cần phải dùng theo pháp tòng trị.
PHÁP THANH.
Là dùng các vị thuốc đắng mát có tác dụng thanh nhiệt, thoái nhiệt, giáng hoả, một số vị thuốc sinh tân, chỉ khát trừ phiền. Thuốc được chỉ định rộng rãi trong các chứng sốt trong bệnh “ôn nhiệt”, bệnh tà xâm phạm phần khí, dinh, huyết thuộc lý chứng. Các thuốc dùng theo pháp thanh gồm nhiều loại: thanh nhiệt tả hoả (hạ sốt đơn thuần) trọng dụng thạch cao, tri mẫu, trúc diệp, lô căn, chi tử. Thuốc thanh nhiệt giải độc: bồ công anh, kim ngân hoa, liên kiều, sài đất… thuốc thanh nhiệt táo thấp: hoàng liên, hoàng bá, hoàng cầm, nhân trần, long đởm thảo, khổ sâm. Thuốc thanh nhiệt lương huyết: huyền sâm, sinh địa, đan bì, tê giác hoặc sừng trâu và thuốc thanh nhiệt giải thử như tây qua, hà diệp. Ngoài ra còn trọng dụng các thuốc dưỡng âm để thanh hư nhiệt. Các thuốc thanh nhiệt đều có tác dụng kháng khuẩn mạnh và rộng rãi: liên cầu khuẩn tan huyết, phế cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn, các khuẩn đường ruột, thương hàn phó thương hàn, trực khuẩn lỵ đều có tác dụng ức chế.
Chú ý: đa số thuốc đều có tính mát và lạnh nên tránh dùng kéo dài, khi đạt hiệu quả phải ngừng thuốc. Mùa hè thường dùng liều lượng cao hơn mùa đông, khi sắc phải sắc lâu. Muốn tăng hiệu quả cần phải phối hợp thuốc, không những phối hợp trong cùng một nhóm mà phải phối hợp các vị thuốc khác nhóm với nhau. Thuốc có tác dụng chống viêm do nhiễm khuẩn và đặc biệt trong nhiễm siêu vi trùng nhưng phải dùng đủ liều, liều ở mức cao ngay từ đầu, đủ ngày, liên tục, mỗi ngày uống nhiều lần, uống liền từ 7-10 ngày. Nếu do bệnh lý cần dùng kéo dài phải phối hợp thêm thuốc ôn bổ… hoặc nghỉ từ hai đến ba ngày rồi lại dùng tiếp đợt hai.
PHÁP TIÊU.
Là pháp điều trị các chứng tích thực đạo trệ làm tiêu ngưng đọng ứ trệ do các bệnh về khí tụ, huyết tích, đờm tích và thực tích gây nên. Nếu do khí tụ trọng dụng các vị thuốc: sài hồ, chỉ thực, bạch thược, bạch truật, cam thảo. Nếu huyết tích thì dùng các vị thuốc: đương quy, xích thược, đào nhân, hồng hoa, đan sâm, xuyên khung, ngưu tất. Nếu thực tích trọng dụng các vị thuốc: thương truật, hậu phác, sơn tra, mạch nha, thần khúc, trần bì, bán hạ.
Các vị thuốc sử dụng trong pháp tiêu là những thuốc có tác dụng sâu sắc đến chuyển hoá, hấp thu và hoá giáng các chất tinh vi của thủy cốc, thường dùng phối hợp với các thuốc: bổ khí, bổ huyết, kiện tỳ để tăng cường. Trong các trường hợp âm hư hoặc chướng phù do khí hư dùng thuốc tiêu phải hiệu quả phối hợp với các thuốc khác.
PHÁP BỔ.
Là phương thuốc bồi bổ lại âm, dương, khí, huyết tạo nên trạng thái cân bằng duy trì hoạt động bình thường của cơ thể. Thuốc được chỉ định rộng rãi trong các chứng âm hư, khí hư, huyết hư, dương hư. Theo y học cổ truyền thuốc bổ cũng chính là thuốc tấn công bệnh và ngược lại. Trên lâm sàng nếu huyết hư thường trọng dụng các vị thuốc: thục địa, bạch thược, đương quy, xuyên khung, tang thầm, hà thủ ô đỏ. Nếu khí hư thường dùng các vị thuốc: sâm, hoàng kỳ, bạch truật, hoài sơn, bạch linh, cam thảo. Nếu âm hư thường dùng: thục địa, sa sâm, mạch môn, thiên môn, quy bản, miết giáp, kỷ tử… nếu tổn hao tân dịch phải dùng: mạch môn, sâm, ngũ vị, nhân sâm. Nếu dương hư phải dùng: phụ tử chế, nhục quế, phá cố chỉ, cốt toái bổ, ngô thù du, ích trí nhân, can khương… thận trọng khi dùng thuốc bổ trong các chứng thực, muốn tăng hiệu quả và giảm tác dụng phụ của các thuốc bổ phải chú ý phối hợp thuốc, người xưa thường phối hợp thuốc bổ âm với thu liễm, bổ khí với kiện tỳ bổ khí huyết, bổ khí với hành khí, bổ huyết với hoạt huyết và phối hợp với bổ âm và tiếp dương hoặc bổ dương và tiếp âm. Trên thực tế lâm sàng thường phải phối hợp giữa các pháp với nhau, hiếm có những bệnh chỉ dùng đơn thuần một pháp, nhất là đối với bệnh mãn tính kéo dài, ở bệnh nhân có thai, sau đẻ, trẻ nhỏ và tuổi già.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh