✴️ Quản lý nguy cơ từ môi trường (P2)

Nội dung

THÔNG TIN VỀ MÔI TRƯỜNG

Người ta đã nhận thấy rằng nhận thức của cộng đồng và mỗi thành viên trong cộng đồng không hoàn toàn giống nhau về các nguy cơ ảnh hưởng tới sức khoẻ của các yếu tố môi trường. Người ta nhận biết được tác hại của môi trường ở các mức độ khác nhau, đồng thời khi nhận thức được yếu tố tác hại rồi thì cách phản ứng với yếu tố tác hại đó cũng không giống nhau. 

Ví dụ: trong trường hợp ngộ độc cá nóc, do được thông báo trên các phương tiện truyền thông đại chúng, rất nhiều người đã biết ăn cá nóc có thể bị ngộ độc và thậm chí gây tử vong. Một số người không được thông tin nên không biết. Một số người chỉ biết đại khái mà chưa biết phân biệt cá nóc với các loại cá khác. Thêm vào đó, khi biết rồi nhưng nhiều người vẫn mua về ăn, vẫn mang đi bán nghĩa là vẫn chấp nhận nguy cơ (vì không phải cứ ăn cá nóc là chắc chắn bị nhiễm độc). 

Có rất nhiều ví dụ khác tương tự trong thực tế. Ngộ độc thực phẩm do hoá chất xảy ra thường xuyên tạo ra một bầu không khí lo âu về mất an toàn thực phẩm nhưng phản ứng của cộng đồng rất khác nhau. Điều này phụ thuộc vào mức độ truyền thông và cả ý thức của cộng đồng. Thông tin về môi trường không phải chỉ từ phía các cơ sở y tế, cơ sở khoa học công nghệ môi trường đến người dân - những người có thể gánh chịu hậu quả của ô nhiễm môi trường mà còn tới các cơ sở, các cơ quan của chính quyền chịu trách nhiệm trong việc ra quyết định xử lý ô nhiễm môi trường và tới các cơ sở sản xuất, các nhà doanh nghiệp, những người phân phối hàng hoá là những người có trách nhiệm trong việc gây ô nhiễm, tạo nguy cơ, phân phát các yếu tố ô nhiễm. Các cơ quan thông tin đại chúng, các hiệp hội trong đó có Hội Bảo vệ người tiêu dùng cũng cần được thông tin. 

Thông tin không có nghĩa là thông báo cho ai đó biết một thông điệp nào đó mà còn có việc khuyến khích việc cung cấp thông tin phản hồi. Kết quả của thông tin là đạt được một sự nhận biết, thay đổi hành vi và có được quyết định nhằm làm giảm nhẹ nguy cơ, giải quyết các hậu quả và ngăn ngừa các yếu tố nguy cơ mới. 

Thông tin môi trường nhằm trao đổi thông tin về việc có hay không tồn tại một yếu tố nguy cơ trong môi trường; đặc điểm của yếu tố ô nhiễm, yếu tố độc hại hay nguy cơ; dạng tồn tại của yếu tố ô nhiễm; mức độ ô nhiễm và mức độ chấp nhận được của yếu tố ô nhiễm, của nguy cơ. 

Khi thông tin, mục tiêu quan trọng nhất là đạt được một số quyết định của cộng đồng trong việc phòng ngừa nguy cơ bằng những giải pháp hữu hiệu, khả thi và bền vững. Các giải pháp (hay chiến lược) nhằm khống chế nguy cơ của môi trường phụ thuộc vào các loại nguy cơ, vào mức độ nhận thức hay quan tâm, lo lắng của cộng đồng với nguy cơ. 

Khi tiếp xúc một cách tự nhiên với nguy cơ môi trường như với ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn là điều mà người ta thấy không thể tránh được (ô nhiễm không khí...) hoặc khó tránh được (khói thuốc lá của người khác hút). Giải pháp quản lý môi trường là giáo dục cộng đồng để họ nhận biết được nguy cơ hoặc tạo ra các điều kiện để khống chế (cấm hút thuốc tại nơi làm việc, nơi công cộng...). 

Khi một số nguy cơ môi trường thường xuyên được thông báo qua các phương tiện truyền thông đại chúng hoặc cảnh báo tại nơi làm việc một cách rộng rãi, có thể nhận thức của cộng đồng chỉ là chú ý nhiều hơn tới tác hại thì giải pháp đưa ra sẽ nhằm tăng cường, duy trì sự chú ý của các phương tiện truyền thông và làm cho việc truyền thông rộng rãi hơn, thực hơn, không che dấu thông tin. 

Khi một nguy cơ môi trường đã tạo nên tâm lý sợ hãi, lo lắng về sự mất an toàn trong cộng đồng có thể làm cho một bộ phận cộng đồng quá sợ hãi hoặc ngược lại, có một số người cho rằng không hề đáng sợ vì đã trở thành quá thường tình (ví dụ: người làm việc trên cao dễ dàng bị tai nạn do ngã, ai cũng biết tai nạn này cũng thường xảy ra làm cho một số người quá sợ hãi hoặc ngược lại, cho là chuyện thường). Cách giải quyết sẽ phải nhằm đưa ra các luật lệ (ví dụ như điều lệ an toàn lao động). 

Khi một nguy cơ môi trường chỉ tác động khu trú trong một nhóm người, một số nguy cơ có thể đã gây chết người, gây tai nạn chấn thương, tàn phế trong một số trường hợp đặc biệt. Giải pháp ở đây là đưa ra các thông báo cho các cộng đồng này về mức độ nguy hại có thể vượt quá những gì mà họ biết, hoặc phóng đại hơn những trường hợp bị ảnh hưởng làm cho cộng đồng chú ý tới những hậu quả so với việc cảnh báo về xác suất sẽ xảy ra hậu quả. 

Khi một nguy cơ môi trường tác hại trên trẻ em, giải pháp phải nhằm vào cả cộng đồng và từng gia đình sao cho mọi người, mọi nhà đều nhận thức đúng về nguy cơ này cũng như mức độ nguy hại của nó không chỉ cho trẻ em hôm nay mà kéo dài đến khi trưởng thành. Hậu quả không chỉ hôm nay mà còn trên thế hệ sau. 

Thông tin về các mối nguy cơ trong môi trường là một hoạt động của quản lý nguy cơ. Những người cung cấp thông tin về môi trường bao gồm các cơ sở y tế mà trước hết là hệ thống y tế dự phòng thông báo về các nguy cơ, thực trạng ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, môi trường thực phẩm, môi trường lao động. Các thông tin về các vụ dịch bùng nổ không chỉ do nhiễm khuẩn mà còn do nhiễm độc hoặc các nguy cơ với bức xạ ion hoá, các yếu tố vật lý, các nguy cơ thảm hoạ do con người hoặc thảm hoạ tự nhiên, các điều kiện phát sinh cũng như các cơ hội, các yếu tố làm tăng giảm nguy cơ. Các thông tin từ cơ sở y tế cũng phải cảnh báo cộng đồng về sự mất cảnh giác, sự bất cẩn của cá nhân, sự thờ ơ chậm chễ trong việc ra quyết định xử lý của các cơ quan hữu trách và cả sự mất cảnh giác của cơ quan y tế. Đối với hệ thống bệnh viện, các phòng khám cung cấp thông tin về các trường hợp nhiễm độc, nhiễm trùng hoặc tai nạn do ô nhiễm môi trường, cảnh báo cộng đồng qua các số liệu về trường hợp cấp cứu, tử vong hoặc tàn phế làm cho cộng đồng nhận thức đầy đủ hơn về các mối nguy cơ, khuyến khích họ áp dụng các biện pháp phòng chống để bảo vệ cho cộng đồng và cho từng gia đình, từng cá nhân. Cảnh báo các nhà sản xuất, những người cung cấp hàng hoá không an toàn và tạo áp lực dư luận, áp lực xã hội trên những người chịu trách nhiệm về ô nhiễm môi trường. Thông tin không phải lúc nào cũng chỉ chú ý tới quyền lợi của người dân mà còn góp phần bảo vệ quyền lợi của những người sản xuất, làm họ đồng tình ủng hộ và cùng tham gia vào quá trình khống chế các yếu tố nguy hại từ môi trường, ví dụ như việc đưa ra các khuyến cáo về giải pháp khống chế nguy cơ có chi phí thấp và hiệu quả cao, giải pháp dự phòng để tránh xảy ra rủi ro, giảm chi phí do phải bồi thường. 

Theo nhà xã hội học và là chuyên gia về thông tin các nguy cơ môi trường (Tiến sĩ Peter Sandman (1987)) thì nguy cơ được định nghĩa bằng tổng của các yếu tố nguy cơ và những phản ứng bất bình từ phía cộng đồng:

Nguy cơ = Yếu tố nguy cơ + Phản ứng bất bình của cộng đồng

(Risk = Hazard + Outrage)

Đối với các chuyên gia thì nguy cơ đồng nghĩa với tỷ lệ tử vong ước tính hàng năm. Nhưng đối với cộng đồng (và thậm chí đối với cả các chuyên gia khi họ ở nhà) thì nguy cơ còn mang nhiều ý nghĩa khác. Cộng đồng thường chú ý quá ít tới yếu tố nguy cơ thực sự, còn các nhà chức trách thì lại không chú ý tới phản ứng bất bình của cộng đồng. Vì vậy, khi các nhà chức trách và cộng đồng xem xét đánh giá một nguy cơ thì họ sẽ có các kết quả khác nhau. 

Theo Peter Sandman (1987), có hơn 20 yếu tố khác nhau gây bất bình, giận dữ trong cộng đồng. Một số ví dụ điển hình là: nguy cơ tự nguyện thì sẽ không gây ra bất bình trong cộng đồng và được mọi người chấp nhận hơn nguy cơ bị ép buộc (ví dụ hãy so sánh trường hợp bạn bị một nhà chức trách bắt trượt xuống một ngọn núi băng tuyết mà chỉ dùng hai cây trượt với việc bạn quyết định đi trượt tuyết vào cuối tuần); nguy cơ tự nhiên sẽ được chấp nhận như là "tại trời" còn nguy cơ nhân tạo thì sẽ gây ra bất bình và khó được chấp nhận; nguy cơ quen thuộc thì dễ được chấp nhận hơn nguy cơ mới (ví dụ nguy cơ bị bệnh ỉa chảy thì rất quen thuộc và cộng đồng dễ chấp nhận hơn so với nguy cơ bị bệnh than, mặc dù số tử vong mà bệnh than gây ra là rất nhỏ) v. v. 

Các thông tin được truyền thông tới cộng đồng phải luôn luôn được lặp đi lặp lại và gây chú ý như nguyên tắc quảng cáo. Đồng thời, thông tin phải được cộng đồng chấp nhận, lôi cuốn họ trở thành những người truyền thông từ người này sang người kia. Thông tin cũng cần rõ ràng, thu hút; vừa phải thân thiện không kích động nhưng vừa phải thẳng thắn và cởi mở phù hợp với trình độ học vấn, tập quán tín ngưỡng, dân tộc và đại chúng nhất là các dân tộc ít người và đồng thời cũng phải phù hợp với nội dung truyền thông đáp ứng yêu cầu của phương tiện truyền thông đại chúng. Thông tin phải nhằm thu được các phản hồi từ cộng đồng, các bên có liên quan để điều chỉnh. Sau cùng, song cũng không kém phần quan trọng đó là thông tin phải dựa trên việc xây dựng kế hoạch phù hợp và được đánh giá hiệu quả để có chiến lược tốt hơn, kế hoạch phù hợp hơn. 

 

PHÒNG CHỐNG TÁC HẠI CỦA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG

Một bộ phận quan trọng của quản lý nguy cơ là dự phòng và khống chế tiếp xúc với các yếu tố tác hại trong môi trường. 

Giống như các dây truyền dịch tễ học, khống chế yếu tố ô nhiễm môi trường cũng bao gồm ba khâu:

Khống chế nguồn gây ô nhiễm.

Ngăn chặn sự phát tán yếu tố ô nhiễm.

Bảo vệ những đối tượng tiếp xúc.

Mức độ dự phòng được chia làm ba cấp độ như sau:

Dự phòng cấp 1: bảo vệ khối cảm thụ, không tiếp xúc quá mức với các yếu tố nguy cơ để không bị bệnh. 

Dự phòng cấp 2: bảo vệ những người đã và đang tiếp xúc quá mức với các yếu tố nguy cơ, không để các tổn thương dưới lâm sàng hoặc lâm sàng gây ra các hậu quả lâu dài trên sức khoẻ (phát hiện sớm và xử trí đúng, kịp thời). 

Dự phòng cấp 3: không để xảy ra các rủi ro, hậu quả gây chết người do ô nhiễm môi trường. 

Trong y tế dự phòng, người ta chỉ chú ý tới dự phòng cấp 1 và cấp 2, còn dự cấp 3 thuộc về trách nhiệm của hệ thống khám chữa bệnh. Việc phòng ngừa các yếu tố tác hại đặc trưng sẽ được trình bày ở các bài sau. Bài này chỉ trình bày các nguyên tắc dự phòng các tác hại, các nguy cơ từ môi trường chung nhất. 

Các giải pháp dự phòng cấp 1

Các giải pháp dự phòng cấp 1 bao gồm:

Khống chế ô nhiễm tại nguồn phát sinh.

Thay thế các yếu tố độc hại bằng yếu tố không độc hại. 

Thay thế các quy trình công nghệ phát sinh độc hại nhiều bằng các quy trình không phát sinh độc hại, ít phát sinh độc hại hơn hoặc quy trình công nghệ phát sinh độc hại nhưng dễ khống chế sự lan toả các yếu tố độc hại ra môi trường xung quanh hơn. 

Không để yếu tố độc hại phát sinh bằng thông gió, thoáng khí. 

Khống chế sự phát tán các yếu tố độc hại vào môi trường sản xuất hoặc môi trường xung quanh:

Áp dụng biện pháp che chắn, bao bọc cách ly nguồn phát sinh ô nhiễm. 

Hút cục bộ hoặc tạo các mảng hút, hấp thụ yếu tố ô nhiễm tại nguồn.

Bảo vệ người tiếp xúc

Sử dụng các trang bị bảo hộ cá nhân phòng chống tác hại từ môi trường.

Giáo dục sức khoẻ môi trường cho cộng đồng.

Các giải pháp tổ chức, hành chính.

Khống chế ô nhiễm tại nguồn phát sinh 

Thay thế các nguyên liệu, nhiên liệu phát sinh độc hại bằng nguyên liệu hoặc nhiên liệu ít độc hại hơn hay hoàn toàn vô hại sẽ giải quyết tận gốc nguồn ô nhiễm. Một khi nguồn ô nhiễm chỉ hạn chế mức độ gây hại cần áp dụng các biện pháp thông thoáng gió hoặc đưa gió vào làm thoáng bớt nồng độ chất ô nhiễm trước khi bị thải vào môi trường trong cơ sở sản xuất: mở thêm cửa thông thoáng, sử dụng quạt thổi, quạt hút. Khác với việc thay thế chất độc, ở đây nhờ cấp một lượng khí lớn làm cho nồng độ chất độc hoặc bụi trong không khí bị loãng ra để đạt được dưới mức cho phép. Việc khống chế chất độc tại nguồn được thực hiện qua các tiêu chuẩn sản phẩm và các tiêu chuẩn về quy trình hoặc tiêu chuẩn chất thải. 

Các tiêu chuẩn sản phẩm

Nếu một chất chưa được biết về ngưỡng cho phép hoặc vẫn chưa được thử nghiệm một cách đầy đủ, có thể thực hiện giảm tác hại bằng cách thiết kế lại sản phẩm sao cho hạn chế tối đa khối lượng cần sử dụng để sản xuất ra sản phẩm đó hoặc đi tìm nguyên liệu thay thế. Ví dụ: benzen là một chất độc hại, có thể sử dụng xylen hoặc toluen để thay thế là các chất ít độc hại hơn, hoặc thay thế một phần benzen bằng các dung môi khác. Một ví dụ khác: việc thay xăng pha chì bằng xăng không có chì đã loại bỏ nguy cơ ô nhiễm chì do khí xả động cơ dùng xăng pha chì trước đây. Trong nhiều trường hợp, tiêu chuẩn hoá các thành phần của nguyên liệu và nhiên liệu để khống chế mức thải chất độc vào môi trường. 

Các tiêu chuẩn về quy trình sản xuất

Nếu có một yếu tố ô nhiễm thải vào môi trường trong quá trình sản xuất thì Chính phủ (thông qua Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường, Bộ Y tế...) có thể đưa ra các chính sách thuế ưu đãi cho các quy trình công nghệ không hoặc ít gây huỷ hoại môi trường. Khuyến khích các quy trình công nghệ sạch cũng như đánh thuế cao với các công nghệ lạc hậu hoặc đưa ra các yêu cầu xử lý chất thải (khí thải, rác thải, nước thải) một cách nghiêm ngặt. 

Các tiêu chuẩn về chất thải 

Các chất thải công nghiệp vào môi trường đất, nước, không khí đã được ban hành hàng chục năm nay. Những tiêu chuẩn này có thể thể hiện qua việc quy định các nồng độ tối đa cho phép về hàm lượng chất ô nhiễm trong khí xả, nước thải. Cũng có các mức quy định chất thải theo đơn vị thời gian hoặc theo đơn vị sản phẩm hoặc đơn vị nhiên liệu, nguyên vật liệu tiêu thụ. 

Các tiêu chuẩn được đặt ra cần phải cân nhắc tới thực tế sản xuất, thực tế thị trường. Các tiêu chuẩn quy định cho đào tạo công nhân, tiêu chuẩn đóng gói và dán nhãn hàng hóa, tiêu chuẩn cất giữ sử dụng và vận chuyển cũng như huỷ bỏ, xử lý các chất độc. 

Khống chế sự phát tán yếu tố độc hại vào môi trường

Đây là giải pháp tiếp theo giải pháp khống chế ô nhiễm tại nguồn, một khi giải pháp đó chưa đạt yêu cầu. 

Đối với chất độc, biện pháp hút cục bộ nhằm hạn chế sự phát tán chất độc vào môi trường không khí. Hút cục bộ sẽ rất hữu hiệu nếu kết hợp với các biện pháp che chắn, làm kín nguồn phát sinh. Các chất độc, kể cả bụi sau khi được hút sẽ được xử lý, làm sạch trước khi thải vào môi trường. Nhiều trường hợp chỉ hút sau đó lại đưa vào ống khói để thải ra môi trường xung quanh (lúc đó nồng độ chất độc có thể bị loãng ra) và làm ô nhiễm phát tán đi xa hơn, cho dù không còn ở mức gây hại nhưng quá trình tích luỹ có thể lại gây hậu quả lâu dài. 

Đối với các yếu tố ô nhiễm là tiếng ồn hoặc bức xạ, việc hút cục bộ không có tác dụng, thay vào đó là các bộ phận bao bọc, các tấm hút âm, chắn bức xạ. Kết cấu tường và trần nhà phù hợp có thể làm giảm mức ồn. Tận dụng quy luật giảm cường độ theo khoảng cách, có thể tạo khoảng cách cách ly xa nguồn phát sinh cũng bảo vệ được công nhân. Bên cạnh các xa lộ có mật độ giao thông lớn, người ta thiết kế các hệ thống cản âm hoặc trồng cây hai bên đường. 

Bảo vệ người tiếp xúc

Bảo vệ người tiếp xúc rất thường áp dụng trong môi trường lao động qua việc sử dụng các trang thiết bị phòng hộ cá nhân: quần áo bảo hộ, găng ủng, kính, nút tai, mặt nạ, khẩu trang. Bảo vệ người tiếp xúc cũng được thực hiện qua giảm thời gian tiếp xúc, giảm số người phải tiếp xúc. 

Các biện pháp phòng hộ cá nhân chỉ được coi là giải pháp bổ trợ khi hai giải pháp trên bị hạn chế. Các biện pháp phòng hộ cá nhân rất khó áp dụng cho các loại ô nhiễm môi trường xung quanh. Việc đeo khẩu trang trong 8 giờ lao động đã khó khăn thì việc sử dụng trong môi trường sinh hoạt cũng còn hạn chế hơn rất nhiều. Việc sử dụng các túi thở khi môi trường ô nhiễm quá nặng chỉ có thể thực hiện ở các nước giàu một cách hạn chế. 

ở các nước nghèo, vùng nghèo, người nghèo phải sống tại các vị trí mà người giàu không ở đó, ví dụ như gần các nguồn chất thải (gần các cống thải, bãi rác, các nhà máy). Trong điều kiện đô thị hoá mạnh mẽ như hiện nay, khu vực nội thành phát triển dần dần có quy hoạch hơn, song khu vực ngoại thành lại là nơi hứng chịu những hậu quả của đô thị, đó cũng là nơi nhận các nguồn rác thải, khí thải, nước thải từ thành phố. Tệ nạn xã hội cũng từ thành phố ảnh hưởng tới khu ngoại ô. Đ ây là hiện tượng bóng rợp đô thị như đã được đề cập tới ở các nước trong khu vực từ hàng thập kỷ trước đây. Việc quản lý môi trường cũng cần chú trọng cả đến khía cạnh công bằng xã hội, nghĩa là phải dành những khoản kinh phí thích đáng cho các chương trình làm sạch môi trường, xây dựng thành phố lành mạnh ở cả hai khu vực nông thôn ngoại thành và thành thị, khu vực công nghiệp và vùng phụ cận. Đ ây cũng là một yếu tố của phát triển bền vững. 

Bảo vệ người tiếp xúc khỏi các nguy cơ từ môi trường, ngoài nhà máy, ngoài khu đô thị phải được thực hiện bằng các luật lệ và bằng các chiến lược tổng thể, không phải bằng các phương tiện phòng hộ cá nhân. 

Giáo dục sức khoẻ môi trường

Giáo dục sức khoẻ môi trường là một bộ phận của quản lý môi trường. Người dân phải nhận thức được các vấn đề môi trường mà họ đang sống. Những người lãnh đạo cộng đồng cũng cần được trang bị kiến thức về chất lượng môi trường, bảo vệ môi trường trong quá trình quy hoạch sản xuất, quy hoạch khu công nghiệp và đô thị để có thái độ xử trí đúng. 

Giáo dục sức khoẻ môi trường bao gồm:

Các hoạt động truyền thông nhằm nâng cao hiểu biết của người dân về các yếu tố ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng của các yếu tố đó lên sức khoẻ. 

Hướng dẫn cộng đồng cách tạo ra môi trường sạch hơn, an toàn hơn. 

Thay đổi cách ứng xử của cộng đồng với ô nhiễm môi trường do sinh hoạt, do lao động sản xuất và môi trường thực phẩm không an toàn. 

Nước ta là một nước nông nghiệp đang trên đà công nghiệp hoá. Gánh nặng môi trường vừa mang đặc trưng của một nước đang phát triển với ô nhiễm các nguồn chất thải sinh hoạt, các mầm bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng, vừa chịu ảnh hưởng của ô nhiễm công nghiệp, ô nhiễm đô thị. 

Trong khi mức độ tiếp cận với các nguồn nước sạch còn hạn chế, tình trạng thiếu công trình vệ sinh cơ bản như hố xí, nhà tắm, nhà ở hợp vệ sinh, hệ thống xử lý rác thải, phân gia súc, ... thì nhiệm vụ của các nhà vệ sinh môi trường vẫn cần chú trọng rất nhiều tới các hoạt động giáo dục sức khoẻ môi trường với đặc trưng nông thôn. Bên cạnh đó, các đặc điểm đô thị hoá thiếu quy hoạch, ít được kiểm soát bằng luật lệ, tạo ra tình trạng ô nhiễm đô thị rất phức tạp. ở đây việc giáo dục môi trường có thể thực hiện qua các chương trình giáo dục sức khoẻ ở nông thôn. 

Một trong những điểm lưu ý của truyền thông giáo dục sức khoẻ là tránh lặp đi lặp lại quá nhiều những kiến thức rất phổ thông như: cần ăn chín uống sôi... vì những điều này đến nay đã quá thông thường. Dân trí phát triển, người dân cần biết nhiều hơn về các bệnh tật gây ra do môi trường để từ đó có thái độ ứng xử phù hợp. Một nghiên cứu của Trường Đ ại học Y Hà Nội tại Hà Nam cho thấy rằng kiến thức về các yếu tố ô nhiễm môi trường của người dân không kém, nhưng hiểu biết của họ về các bệnh do môi trường gây ra còn quá ít. Do chưa hiểu biết đầy đủ về các bệnh do môi trường, người dân chưa có các cách ứng xử phù hợp trong việc cải tạo các công trình vệ sinh và bảo vệ nguồn nước. 

Việc giáo dục vệ sinh cho các công nhân trong nhà máy dễ dàng hơn do ở đây có các chương trình đào tạo về vệ sinh an toàn lao động một cách định kỳ, bắt buộc. Đối với một số công nhân cũng như chủ sản xuất của các cơ sở sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu, phát sinh nhiều độc hại, hệ thống phòng hộ lao động sơ sài, công nhân thường là tạm tuyển, tay nghề thấp và gần như rất ít tiếp cận với các chương trình truyền thông giáo dục sức khoẻ. Họ là các đối tượng rất dễ bị tổn thương và phải là đối tượng trọng tâm của các chương trình giáo dục sức khoẻ môi trường, nhất là trong điều kiện các xí nghiệp nhỏ ngày càng phát triển như hiện nay ở các đô thị cũng như tại các làng nghề ở nông thôn. 

Nếu các giải pháp trên không áp dụng được hoặc có nhiều hạn chế, không đảm bảo bảo vệ để không gây tác hại trên sức khoẻ, lúc đó mới áp dụng các giải pháp dự phòng cấp 2.

Xem tiếp: Quản lý nguy cơ từ môi trường (P3)

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top