Covid-19 (coronavirus disease 19) đang là một trong những thách thức lớn nhất cho thế giới trong thời điểm hiện tại. Những tác động của coronavirus (SARSCoV-2) không chỉ đơn thuần lên sức khỏe, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế và cuộc sống của người dân trên toàn cầu. Một vài nước đã thông báo rằng họ đang trải phải qua một trong những tình huống tồi tệ nhất trong hơn 100 năm vừa qua.
Covid-19 lần đầu tiên được phát hiện tại Vũ Hán, Trung Quốc từ cuối năm 2019, và chỉ sau hơn 3 tháng đã lan rộng ra hơn 190 quốc gia trên thế giới. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) cho đến thời điểm hiện tại, hơn 330.000 trường hợp đã được xác định dương tính, gần 15.000 bệnh nhân đã tử vong liên quan đến Covid-19 (ngày 23/03/2020) [1]. Mặc dù, một số nước châu Á đang có dấu hiệu kiểm soát được tình hình, nhưng với sự bùng nổ hiện tại tại các quốc gia châu Âu, Mỹ La Tin và sự khó lường của một bệnh dịch đang hoành hành, tất cả nhân viên y tế và người dân đều cần phải nâng cao cảnh giác để giảm thiểu nguy cơ lây lan tức thời và gặp phải những biến chứng nghiêm trọng của dịch bệnh.
SARS-CoV-2 là một thành viên virus mới thuộc họ Coronaviridae, đây là một nhóm virus có túc chủ ở động vật và một số gây nhiễm trùng cho con người. Coronavirus gây bệnh ở người có thể được chia làm hai nhóm (i) nhóm coronavirus gây ra nhiễm trùng hô hấp trên nhẹ (bệnh cảm lạnh thông thường) với các triệu chứng nhẹ giống như cúm thường bao gồm các thành viên Human coronavirus OC43 (HCoV-OC43), Human coronavirus HKU1, Human coronavirus NL63 (HCoVNL63, New Haven coronavirus) Human coronavirus 229E (HCoV-229E); (ii) nhóm coronavirus gây nên các nhiễm trùng nặng hơn gây viêm phổi, như virus severe acute respiratory syndrome coronavirus (SARS-CoV) gây hội chứng suy hô hấp cấp tính nặng có thể gây tử vong như SARS – Hội chứng suy hô hấp cấp tính nặng (11/20027/2003 với 8422 ca bệnh và 774 ca tử vong); MERS-CoV gây MERS – hội chứng hô hấp Trung Đông (2012-2015 với 1149 ca bệnh và tử vong 40%), SARS-CoV-2 là thành viên mới thuộc nhóm 2 này [1]
Lây từ người sang người (person – to – person): Đây được xem là đường lây truyền chính
Lây trực tiếp khi tiếp xúc gần với người nhiễm bệnh (dưới 02 mét), khi những giọt bắn có chứa các virus sống đi vào mắt, mũi, miệng và đường hô hấp trên của người tiếp xúc (droplets transmission).
Khi người nhiễm ho hoặc hắt hơi sẽ có những giọt bắn nhỏ (droplet nuclei), kích thước nhỏ hơn 5 micromet (1/1000mm) bên ngoài là nước, nhầy ở trung tâm chứa virus có thể bay lơ lửng trong không khí khá lâu và theo gió phát tán đi xa hơn và người tiếp xúc vô tình hít phải. [3]
Lây lan qua việc tiếp xúc với đồ vật/bề mặt có chứa virus
Đây vẫn có thể được xem là một trong những đường lây truyền của virus, mặc dù vẫn còn nhiều tranh luận về mặt khoa học. Coronavirus ở người có thể sống trên các bề mặt các vật dụng đến tối đa 5 ngày trong điều kiện nhiệt độ 22-25°C và độ ẩm khoảng 40-50% (tương ứng với môi trường có sử dụng máy điều hòa). Thời gian sống phụ thuộc vào chất liệu của bề mặt. [4]
Tính đến thời điểm hiện tại, trên thế giới có hơn 330.000 trường hợp đã xác nhận dương tính với coronavirus (SARS-CoV-2) trong đó có ước tính gần 15,000 trường hợp tử vong liên quan đến virus này. Như vậy, có thể thấy tỉ lệ tử vong rơi vào khoảng 4.5% [1]. Tuy nhiên, tỷ lệ bệnh nặng và tử vong phụ thuộc rất lớn vào độ tuổi. Theo kết quả thống kê của Trung tâm phòng chống và kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) trong khoảng thời gian từ 12/02/2020 đến 16/03/2020 tại Hoa Kỳ, nhóm người lớn tuổi có tỷ lệ biến chứng nặng và tử vong cao. [4]
Bảng 1. Phân tích dịch bệnh Covid-19 theo nhóm tuổi của CDC
|
Tỷ lệ phần trăm |
||
Nhóm tuổi |
Nhập viện |
Hồi sức tích cực |
Tử vong |
0–19 (123) |
1.6–2.5 |
0 |
0 |
20–44 (705) |
14.3–20.8 |
2.0–4.2 |
0.1–0.2 |
45–54 (429) |
21.2–28.3 |
5.4–10.4 |
0.5–0.8 |
55–64 (429) |
20.5–30.1 |
20.5–30.1 |
1.4–2.6 |
65–74 (409) |
28.6–43.5 |
8.1–18.8 |
2.7–4.9 |
75–84 (210) |
30.5–58.7 |
10.5–31.0 |
4.3–10.5 |
≥85 (144) |
31.3–70.3 |
6.3–29.0 |
10.4–27.3 |
Tổng số (2,449) |
20.7–31.4 |
4.9–11.5 |
1.8–3.4 |
Theo kết quả của bảng phân tích trên, có thể thấy rằng có khoảng 20 – 30 % người nhiễm SARS-CoV-2 cần nhập viện điều trị, tỷ lệ tử vong vào khoảng 3%. Tuổi càng cao thì tỉ lệ cần chăm sóc y tế và tử vong càng tăng lên. Ngược lại, 70 – 80 % trường hợp dương tính với coronavirus sẽ có triệu chứng nhẹ mà không cần phải can thiệp y tế.
Cũng theo CDC, những người sau đây được xem là nhóm đối tượng nguy cơ cao xuất hiện biến chứng nặng nếu nhiễm SARS-CoV-2 [5]:
Người lớn tuổi: trên 65 tuổi.
Những người có bệnh lý mãn tính:
Bệnh lý tim mạch
Đái tháo đường
Bệnh lý về phổi
Người suy giảm chức năng miễn dịch.
Thai phụ: Mặc dù đến nay chưa có đủ bằng chứng cho thấy thai phụ có nguy cơ xuất hiện triệu chứng nặng cao hơn cộng đồng, tuy nhiên, NHS (hệ thống bệnh viện công lập Vương quốc Anh) đã đưa phụ nữ mang thai vào nhóm đối tượng nguy cơ cao, cần có biện pháp phòng dịch mạnh hơn so với cộng đồng [6], điều này phù hợp với sự thay đổi hệ thống miễn dịch trong thai kỳ.
Theo nghiên cứu của E Mulline và cs (2020) chỉ có 2/32 thai phụ có biến chứng nặng, tỷ lệ ít hơn nhiều so với SARS và MERS. Dựa trên kết quả nghiên cứu này, RCOG đã đưa ra khuyến cáo biện pháp sinh sẽ dựa trên chỉ định sản khoa và chống lại việc tách rời mẹ và con [7].
Trong bối cảnh vẫn chưa có thuốc đặc hiệu để điều trị hay vaccince phòng bệnh, điều quan trọng nhất vẫn là nâng cao nhận thức và hành động trong việc giảm thiểu sự lây lan của dịch bệnh. Một trong những bước quan trọng nhất đó là vệ sinh phòng dịch.
Sau đây là tổng hợp một số bước cần thực hiện để giảm thiểu sự lây lan của Covid-19 trong những trường hợp bệnh nhân không nhiễm hoặc không có dấu hiệu nghi ngờ nhiễm với SARS-CoV-2. Những trường hợp dương tính hoặc có dấu hiệu nghi ngờ cần có sự kết hợp với cơ quan quản lý dịch bệnh để có phương án tốt nhất.
Vệ sinh/phòng hộ của người làm siêu âm
Người thực hiện siêu âm trước hết cần tuân thủ các khuyến cáo chung của các tổ chức quốc tế, của Chính phủ, Bộ Y tế, các quy định của Bệnh viện trong phòng và chống dịch Covid-19.
Một số bước mà nhân viên y tế cần làm trước và sau khi thăm khám cho bệnh nhân. [8]
Rửa tay:
Là một bước đơn giản nhưng rất quan trọng đối với nhân viên y tế, đặc biệt là trong tình hình dịch bệnh, điều này càng phải được chú ý và thực hiện thường xuyên hơn. Rửa tay nên được thực hiện thường quy trong tất cả các lần thăm khám để hạn chế sự lây lan của bệnh tật nói chung thông qua con đường tiếp xúc trực tiếp và gián tiếp.
Trước khi vệ sinh bàn tay, cần đảm bảo những điều sau:
Đảm bảo tay áo được xắn cao hơn khuỷu tay.
Tháo nhẫn, trang sức, đồng hồ.
Móng tay được cắt ngắn, làm sạch, không mang móng tay giả.
Nếu tay có vết xước, vết cắt thì cần phải che bằng vật liệu chống nước.
Thực hiện đúng các bước rửa tay theo thông thường trong vòng ít nhất 20 giây, theo quy định của Bộ Y tế. Có thể rửa tay bằng xà phòng và nước hoặc dung dịch rửa tay nhanh có cồn.
Tổ chức y tế thế giới đã đưa ra khuyến cáo các thời điểm cần phải rửa tay đối với nhân viên y tế.
1 |
Trước khi chạm vào bệnh nhân |
Lúc nào? |
Làm sạch tay trước khi thăm khám, tiếp xúc với bệnh nhân |
Tại sao? |
Tránh lây nhiễm các mầm bệnh có trong bàn tay của NVYT sang người bệnh |
||
2 |
Trước các thủ thuật |
Lúc nào? |
Rửa tay ngay trước khi thực hiện các thủ thuật |
Tại sao? |
Để tránh các mầm bệnh đi vào cơ thể bệnh nhân. |
||
3 |
Sau khi tiếp xúc với dịch cơ thể |
Lúc nào? |
Rửa tay ngay lập tức sau khi tiếp xúc với các dịch cơ thể (sau khi tháo găng tay) |
Tại sao? |
Bảo vệ NVYT và môi trường trong phòng khám khỏi các mầm bệnh từ bệnh nhân |
||
4 |
Sau khi thăm khám cho bệnh nhân |
Lúc nào? Tại sao? |
Rửa tay sau khi thăm khám, tiếp xúc với bệnh nhân Bảo vệ NVYT và môi trường trong phòng khám khỏi các mầm bệnh từ bệnh nhân |
5 |
Sau khi chạm vào đồ đạc mà bệnh nhân đã sử dụng |
Lúc nào? |
Rửa tay ngay sau khi chạm vào các vật dụng mà bệnh nhân đã sử dụng |
Tại sao? |
Bảo vệ NVYT và môi trường trong phòng khám khỏi các mầm bệnh từ bệnh nhân |
Đeo khẩu trang
Cơ chế của khẩu trang trong phòng lây lan của SARS-CoV-2 là ngăn chặn những giọt bắn khi tiếp xúc gần người nhiễm hoặc hít phải những giọt bắn nhỏ (nuclei droplets). Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra hướng dẫn các trường hợp cần mang khẩu trang y tế: [9]
Chỉ đeo khẩu trang khi chăm sóc những người nhiễm, nghi ngờ nhiễm.
Đeo khẩu trang khi ho hoặc hắt hơi.
Khẩu trang chỉ có tác dụng chỉ khi kết hợp với rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước hoặc dung dịch rửa tay nhanh chứa cồn.
Khi sử dụng khẩu trang, phải biết cách đeo và tháo khẩu trang đúng cách.
Không sờ/chạm vào mặt ngoài của khẩu trang khi đang sử dụng.
Việc sử dụng khẩu trang tùy thuộc vào chính sách, tình hình, điều kiện của mỗi quốc gia. Riêng ở Việt Nam từ ngày 16/03/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ra thông báo Thông báo 98/TB-VPCP quy định bắt buộc tất cả người dân phải mang khẩu trang khi đi đến các địa điểm công cộng (bệnh viện, trung tâm y tế, đơn vị khám chữa bệnh được xem là địa điểm công cộng), vì vậy tất cả nhân viên y tế và bệnh nhân đều phải mang khẩu trang theo đúng quy định của nhà nước trong giai đoạn dịch bệnh. Đặc biệt, những trường hợp có ho hoặc hắt hơi cần phải có ý thức mang khẩu trang để hạn chế những giọt bắn đi ra môi trường xung quanh.
Đảm bảo vệ sinh đồng phục/áo blouse.
Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, đồng phục y tế/áo blouse nếu không được giặt sạch thường xuyên là một trong những yếu tố nguy cơ làm gia tăng nhiễm trùng bệnh viện. Đồng phục y tế/áo blouse nên được giặt riêng với áo quần sinh hoạt bình thường. Nếu là giặt bằng máy giặt, cần chú ý ngoài việc giặt riêng, không nên giặt quá ½ khả năng khuyến cáo của máy giặt, cài đặt ở mức nhiệt cao nhất mà vải có thể chịu được, sau đó làm khô bằng cách ủi hoặc cài đặt chế độ làm khô của máy. [8]
Xem tiếp: Bác sĩ siêu âm cần làm gì để hạn chế sự lây lan của COVID-19? (Phần 2)
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh