Gain: Nút gain điều chỉnh độ sáng tối của màn hình bằng cách khuếch đại độ mạnh của sóng âm trở về. Độ sáng chung của hình có thể điều chỉnh tăng hoặc giảm bằng cách vặn nút gain theo chiều kim đồng hồ hoặc ngược chiều kim đồng hồ. Hình 2.11 A và B cho thấy một hình ảnh siêu âm với hai mức gain khác nhau.
Hình 2.10 A và B: Hình A và B thể hiện lát cắt ngang đầu thai nhi, lát cắt đo đường kính lưỡng đỉnh. Hình A, độ sâu (mũi tên đôi trắng) gia tăng, kết quả là đầu thai nhi thấy nhỏ, những chi tiết giải phẫu khó nhìn. Hình B, độ sâu giảm, cho phép đầu lớn hơn và như thế giúp nhìn chi tiết giải phẫu tốt hơn.
Hình 2.11 A và B: Hình A và B thể hiện lát cắt ngang đầu thai nhi, lát cắt qua tiểu não. Hình A, gain quá thấp và hình B, gain đủ. Lưu ý ta thấy rõ chi tiết não thai nhi với gain cao hơn ở hình (B). Việc điều chỉnh gain ở mức độ tối ưu cần phải có kinh nghiệm.
Bù gain theo thời gian (TGC): TGC cho phép điều chỉnh độ sáng tại một độ sâu cụ thể. Những nút phía trên điều chỉnh tăng – giảm độ sáng vùng nông, những nút phía dưới điều chỉnh tăng – giảm độ sáng vùng sâu. Hình 2.12 chỉ vị trí điều chỉnh TGC trên bàn điều khiển của một máy siêu âm. Quy luật chung, trong siêu âm bụng, các nút ở nửa trên cần chỉnh lệch nhẹ về bên trái so với các nút ở nửa dưới (bằng cách này, mắt của người làm siêu âm có thể thấy rõ phần sâu của trường nhìn). Quy luật sẽ đảo ngược với đầu dò qua ngã âm đạo, vì vùng cần khảo sát thường nằm nông.
Hình 2.12: Bù gain theo thời gian (TGC) trên bàn điều khiển máy siêu âm. Những nút phía trên (upper field) và phía dưới (lower field) điều chỉnh độ sáng theo thứ tự. Nút chung (overall) giúp chỉnh sáng – tối toàn màn hình.
Mode 2D: Nhấn nút 2D khi làm siêu âm B-mode truyền thống. Đây là mode sáng –tối. Trong mode này, hình ảnh thể hiện trên thang độ xám bao gồm những điểm ảnh (pixel) sắp xếp cạnh nhau theo kiểu rẽ quạt hoặc song song với nhiều sắc độ xám, thể hiện cường độ của tín hiệu hồi âm (Hình 2.13). Khi ngưởi làm siêu âm nhấn nút này, hình ảnh 2D truyền thống sẽ được kích hoạt. Nút này cũng được dùng để quay trở lại mode 2D từ mode Doppler màu và/hoặc Doppler xung.
Hình 2.13: Hình siêu âm 2D ngực thai nhi, lát cắt ngang 4 buồng tim. Lưu ý nhiều mức độ xám với xương sườn sáng nhất (hồi âm dày) nằm sau phổi và tim (ribs). Nước ối (AF) hồi âm trống (anechoic) phản ánh cường độ yếu của sóng hồi âm.
Hình 2.14: Đường M-Mode (đường chấm) cắt ngang qua tim thai (dầu ngoặc nhỏ) ở phần trên của hình. Lưu ý M-Mode thể hiện (dấu ngoặc lớn) ở phần dưới chỉ hoạt động của tim.
Hình 2.15: Hình M-Mode quý I ghi nhận hoạt động của tim thai. Những vết phản chiếu trên M-Mode (các hoa thị) thể hiện hoạt động tim thai. Thước đo đo tần số tim thai (Fetal Heart Rate - FHR) là 144 lần trên phút (beats per minute - bpm).
Mode Dopper màu: Nút CF kích hoạt mode Doppler màu, lúc này ta thấy xuất hiện thêm một hộp màu chồng lên hình 2D theo thời gian thực (real-time). Người làm siêu âm có thể điều chỉnh kích thước và vị trí của hộp màu trên hình 2D. Doppler màu giúp phát hiện dòng chảy trong mô và màu của dòng chảy được mã hóa dựa vào hướng chảy của nó. Theo quy ước, dòng chảy hướng về đầu dò được mã hóa màu đỏ, chạy xa đầu dò mã hóa màu xanh. Người làm siêu âm cũng có thể điều chỉnh thang vận tốc (velocity scale, PRF- pulse repetition frequency) và độ lọc thành (wall filter). Những thông số này đóng vai trò quan trọng trong đánh giá giường mạch máu. Lưu ý rằng dòng chảy màu tuân thủ nguyên tắc Doppler và vì thế nếu chùm tia siêu âm đi vuông góc với dòng chảy, thông tin Doppler màu sẽ không thể hiện trên màn hình (xem chi tiết trong chương 1). Máy siêu âm thế hệ mới cố gắng khắc phục nhược điểm này bằng cách bổ sung thêm các mode mới như Doppler năng lượng (Power Doppler) phản ánh chủ yếu biên độ sóng âm và Dòng chảy trên B-Mode (B-flow) (đừng lầm với B-Mode), hai mode này không phụ thuộc góc Doppler.
Mode Doppler xung hoặc Dopper phổ (Pulsed Wave or Spectral Doppler) nút PW kích hoạt mode Doppler xung. Trong mode này, một tia Dopper xung kèm một cửa sổ Doppler (gate) xuất hiện ở nửa trên của màn hình (Hình 2.16). Cửa sổ Doppler có thể được dịch chuyển bởi người làm siêu âm và được đặt trong lòng mạch nhờ hình ảnh Doppler màu. Mode này thường được kích hoạt sau khi mode Doppler màu xác định dòng chảy. Doppler xung cho những thông tin định lượng về mạch máu như tỷ lệ Tâm thu/Tâm trương (P/S ratio) của động mạch rốn (Hình 2.17). Dòng chảy hướng về đầu dò thể hiện trên đường nền và chạy xa đầu dò thể hiện dưới đường nền. Người làm siêu âm có thể đảo ngược phổ Doppler để nó thể hiện trên đường nền (Hình 2.16). Xem chi tiết trong chương 1.
Hình 2.16: Doppler xung động mạch rốn. Lưu ý cửa sổ Doppler (gate) được đặt trong động mạch rốn như thấy trong nửa trên hình và phổ Doppler thể hiện ở nửa dưới của hình. Phổ Doppler được đảo ngược để thể hiện trên đường nền.
Hình 2.17: Doppler xung động mạch rốn tại chỗ cắm vào thành bụng. Phổ Doppler có màu xanh. S là vận tốc đỉnh tâm thu, D là vận tốc cuối tâm trương. Lưu ý các chỉ số Doppler trên góc phải của màn hình (vàng). Chi tiết hơn, xin đọc chương 1.
Đo đạc: Chức năng đo đạc được kích hoạt khi nhấn nút Measure hoặc Cal (Calculation) trên bàn điều khiển. Chức năng này cho phép người làm siêu âm đo đạc với những định dạng khác nhau, những cấu trúc khác nhau trên màn hình. Khi nhấn nút này, một thước đo xuất hiện trên màn hình. Sử dụng banh lăn (trackball) để di chuyển thước đo đến vị trí mong muốn và nhấn chọn (set). Một khi đã nhấn chọn, một thước đo thứ hai xuất hiện, và ta có thể tiếp tục đo đạc. Những biểu đồ, dữ liệu cài đặt trong máy cho phép ta xác định tuổi thai và ước tính cân nặng thai nhi sau khi đo đạc những thông số cần thiết.
BẮT ĐẦU MỘT KHẢO SÁT
Trước khi tiến hành siêu âm, điều quan trọng cần phải chắc chắn rằng những thông tin thiết yếu về bệnh nhân phải được nhập vào máy siêu âm để có thể lưu hình vào ổ cứng của máy siêu âm, tính toán chính xác tuổi thai và in hình siêu âm cho mục đích làm bằng chứng. Những thông tin tối thiểu cần phải được nhập vào bao gồm tên bệnh nhân, ngày tháng năm sinh và ngày đầu của kỳ kinh cuối. Trên nhiều máy siêu âm, có nút “Patient hoặc Start” giúp bạn điền những thông tin này (Hình 2.18). Nếu bạn không nhập những thông tin này hoặc không có tên bệnh nhân; phần lớn máy siêu âm không cho phép bạn in hoặc lưu hình từ khảo sát của bạn.
Hình 2.18: Bàn điều khiển của một máy siêu âm có nút “Patient” (vòng trắng), giúp bạn điền thông tin trên màn hình (không hiển thị ở đây) nơi thông tin của bệnh nhân được nhập vào trước khi tiến hành siêu âm.
Khi bệnh nhân tái khám siêu âm, máy siêu âm hiện đại cho phép bạn tự động lấy lại thông tin của bệnh nhân mà không cần nhập dữ liệu trở lại.
BẰNG CHỨNG KHẢO SÁT
Báo cáo siêu âm được làm sau mỗi khảo sát. Chương 15 cho biết chi tiết những thông số trong báo cáo siêu âm sản – phụ khoa. Điều quan trọng cần biết là hình ảnh bằng chứng là một phần quan trọng của khảo sát và báo cáo siêu âm. Hình ảnh có thể được in trên giấy hoặc lưu bằng kỹ thuật số trên máy siêu âm. Nhiều máy siêu âm có nút in hình siêu âm, cho phép in trên giấy nhiệt hoặc lưu kỹ thuật số chuẩn DICOM trong ổ cứng của máy siêu âm. Người làm siêu âm cũng có thể lưu hình trên ổ cứng ngoài hoặc lưu vào USB. Đây là một chức năng quan trọng cho giáo dục và tư vấn. Thường sẽ có những nút chức năng cho việc in giấy nhiệt, lưu ổ cứng, lưu vào USB. Sao lưu dữ liệu thường xuyên các báo cáo siêu âm, bao gồm hình ảnh siêu âm theo quy định quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1) American Institute of Ultrasound in Medicine (AIUM) Guidelines for Cleaning and Preparing Endocavitary Ultrasound Transducers Between Patients (Approved 6/4/2003) – http://www.aium.org/officialStatements/27
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh