✴️ Sinh máu bình thường (P2)

Bạch cầu mono

Trên tiêu bản máu nhuộm Giemsa, bạch cầu mono có kích thước thay đổi từ 10 đến 20 μm. Nhân to hình hạt đậu, có thể thấy hạt nhân. Bào tương rộng, màu xanh xám hoặc xám. Có thể gặp không bào trong bào tương. Trong bào tương có ít hạt màu đỏ cam, bao gồm hai nhóm. Nhóm hạt phổ biến chứa phosphatase acid và men peroxydase tương tự như hạt sơ cấp của bạch cầu hạt trung tính; nhóm còn lại vẫn chưa rõ chức năng. Số lượng bạch cầu mono ở máu ngoại vi khoảng 1-6% số lượng bạch cầu.

Bảng 1.1. Phân bổ của các CD trên tế bào

Kháng nguyên

Phân bố

Tên gọi hoặc chức năng

CD1

Thymocyt, tế bào Langerhans

 

CD2

Lympho T, tế bào NK

Kháng nguyên biệt hóa lympho T, receptor hổng cầu cừu

CD3

Lympho T

Kháng nguyên liên quan tới receptor của kháng nguyên T

CD4

Dưới nhóm Th/i

Nhận diện miễn dịch giới hạn ở MHC II

CD5

Lympho T, lympho B

 

CD7

Lympho T, tế bào NK

Có lẽ là receptor dối với Fc cùa IgM

CD8

Dưới nhóm Tc/S

Nhận diện miễn dịch giới hạn ở MHC I

CD10 (CALLA)

Tiền B

Endopeptidase

CD11c

Tế bào NK

Receptor đối với C3bi

CD16

Tế bào NK

Receptor III của Fc gamma

CD19

Lympho B

 

CD20

Lympho B

 

CD21

Lympho B

Receptor đổi với C3d và EBV

Bạch cầu dòng lympho

Tế bào mẹ (CFU-HL) của lympho chung được phát triển từ tế bào gốc sinh máu. Từ đây, chúng phân chia (theo chức năng) thành ba nhóm chính là lympho T (85%), lympho B (10%) và NK - Natural killer cell (5-10%). Quá trình biệt hoá của các tế bào dòng lympho, về bản chất liên quan đến sự thêm vào và mất đi của hàng loạt các kháng nguyên bề mặt (Cluster of Diííerentiation - CD). Hầu hết các kháng nguyên bề mặt chủ yếu được xác định bằng kháng thể đớn dòng. Về hình thái, lympho được chia thành hai loại là lympho nhỏ có kích thước tương tự hồng cầu trưởng thành (chiếm phần lớn) và lympho lớn có đường kính 9-12pm. Đây là loại tế bào có nhân tròn, chiếm gần hết bào tương, không thấy hạt nhân (bảng 1.1).

Tiểu cẩu

Từ tế bào nguồn đa năng dòng tủy (CFU-GEMM) sinh ra tế bào mẹ của dòng mẫu tiểu cầu (CFU-Meg), sau đó sinh ra tế bào đầu dòng mẫu tiểu cầu, gọi là nguyên mẫu tiểu cầu (Megakaryoblast). Quá trình nhân lên và biệt hoá của mẫu tiểu cầu cho đến giai đoạn tiểu cầu ở người bình thường diễn ra ở tủy xương. Trong một số trạng thối bệnh lý (như tăng sinh tủy ác tính), quá trình này có thể xảy ra ngoài tủy xương.

Giai đoạn mẫu tiểu cẩu chưa có hạt

Tê bào non nhất của dòng mẫu tiểu cầu là nguyên mẫu tiểu cầu (Megakaryoblast), chiếm khoảng 5% tổng số mẫu tiểu cầu trong tủy xương. Kích thước tê bào 20 - 50 μm, tỷ lệ nhân/ bào tương lớn hơn 1, lưới màu nhân thô, bào tương rất ưa base và không có hạt.

Mẫu tiểu cầu ưa base là tế bào thứ hai, tiếp theo nguyên mẫu tiểu cầu. Kích thước tê bào to hơn nguyên mẫu tiểu cầu, chiếm khoảng 15% tổng số mẫu tiểu cầu trong tủy xương. Tỷ lệ nhân/ bào tương xấp xỉ 1. Bào tương ưa base nhẹ hơn nguyên mẫu tiểu cầu.

Giai đoạn mẫu tiểu cầu có hạt

Bao gồm hai loại là mẫu tiểu cầu có hạt chưa sinh tiểu cầu và mẫu tiểu cầu có hạt đang sinh tiểu cầu, chiếm khoảng 70-00% mẫu tiểu cầu. Đường kính tế bào khoảng 50-100 μm.

Mẫu tiểu cầu có hạt chưa sinh tiểu cầu có một nhân nhưng thường chia nhiều múi, thỉnh thoảng có gặp hạt nhân. Bào tương, bắt màu ưa acid trên tiêu bản nhuộm Giemsa, có nhiều hạt màu tím. Màng bào tương còn nguyên vẹn.

Mẫu tiêu cầu có hạt đang sinh tiểu cầu chiếm tỷ lệ ít hơn mẫu tiểu cầu có hạt chưa sinh tiểu cầu trên tiêu bản tủy đồ người bình thường vì sự phóng thích tiểu cầu xảy ra rất nhanh. Hình thái của loại mẫu tiểu cầu này giông như mẫu tiểu cầu có hạt chưa sinh tiểu cầu, nhưng màng bào tương không còn nguyên vẹn mà bị rách nhiều đoạn, qua đó tiểu cầu được phóng thích ra khỏi mẫu tiểu cầu. Sau khi phóng thích hết tiểu cầu, mẫu tiểu cầu chỉ còn lại một nhân trơ và nhân này sẽ bị thoái hoá rồi tiêu đi nhanh chóng.

Trung bình một mẫu tiểu cầu sẽ phóng thích ra khoảng 3000-4000 tiểu cầu. Tiểu cầu là những tế bào nhỏ, đường kính 2-5pm.

Giai đoạn tiểu cẩu

Thời gian từ lúc xuất hiện một nguyên mẫu tiểu cầu đến khi phóng thích ra tiểu cầu trung bình khoảng 10 ngày. Bình thường chỉ có khoảng 2/3 số lượng tiểu cầu lưu hành ở máu ngoại vi, tương đương 150-500 X 109/1; 1/3 còn lại được tích tụ ở lách. Đời sông của tiểu cầu khoảng 8-10 ngày. Trên tiêu bản nhuộm Giemsa, tiểu cầu hình tròn, có nhiều hạt dạng chấm. Tiểu cầu có đặc tính dính lại với nhau khi ra khỏi lòng mạch, do vậy nếu tiêu bản làm từ máu không chống đông, phần lớn tiểu cầu tập trung thành các đám, bao gồm từ vài tiểu cầu đến nhiều tiểu cầu. Trong thực hành labo, mỗi tiểu cầu quan sát được trên vật kính dầu (x 1000) sẽ tương đương với số lượng tiểu cầu khoảng 10-15 X 109/l, nếu thấy đám vón tiểu cầu thì số lượng tiểu cầu thường > 100 X 109/l.

 

ĐIỂU HOÀ SINH MÁU

Khái niệm chung về điểu hòa sinh máu

Thông tin điều hòa sinh máu xuất phát từ sự tiếp xúc tế bào – tế bào, từ cốc cytokin điều hòa sinh máu và từ chất đệm ngoài tế bào do tế bào liên kết trong vi môi trường sinh máu tiết ra. Các cytokin điều hòa sinh máu có thể tác dụng trong giới hạn hẹp như EPO, TPO, CSF-G hoặc trong một giới hạn khá rộng như IL-3, IL- 6, SF. Tác dụng của cytokin có thể mang tính chất cộng hưởng (cùng chiều) hoặc đối kháng (ngược nhau) nhưng kết quả cuối cùng là điều hòa sinh máu có hiệu quả để đáp ứng nhu cầu của cơ thể.

Do nhu cầu cơ thể như thiếu oxy, nhiễm khuẩn, hoặc do các tác nhân gây giảm một hay nhiều thành phần tế bào máu ngoại vi, thông qua các yếu tố phát triển sẽ kích thích tăng sinh tế bào máu. Các yếu tố phát triển bao gồm toàn bộ các protein kích thích phát triển tế bào máu, chúng được sản xuất từ lympho, bạch cầu mono, đại thực bào, tế bào nội mạch, nguyên bào xơ và các tế bào khác. Các chất kích thích phát triển kiểm soát quá trình tăng sinh và biệt hoá của tế bào gốc thành tế bào chín, ảnh hưởng đến chức năng của tế bào chín như chức năng bạch cầu trong nhiễm khuẩn, cần thiết cho sự phát triển của tế bào gốc vạn năng và tế bào đa năng dòng tủy và lympho.

Các chất tham gia điều hòa sinh máu

Cho đến nay, tác dụng trên sinh máu của rất nhiều yếu tế đã được nghiên cứu cả in vitro và in-vivo. Có thể phân chia chúng thành hai nhóm sau đây:

Các yếu tô phát triển:

Các yếu tố phát triển hay còn gọi là các yếu tố kích thích là các yếu tố tham gia vào suốt quá trình tăng sinh và biệt hóa tế bào. Có thể nêu một số yếu tố sau đây:

Các yếu tố phát triển không đặc hiệu, bao gồm các yếu tố kích thích đa dòng (Multi Colony Stimulating Factor) như IL-3, kích thích tạo cụm dòng hạt, đại thực bào, dưỡng bào, dòng hồng cầu và dòng mẫu tiểu cầu; các yêu tố phát triển tế bào mẹ tạo nên dòng bạch cầu hạt và đại thực bào CSF-GM.

Các yếu tố phát triển đặc hiệu đơn dòng, như CSF-G, CSF-M, CSF-Eo,EPO,      TPO.

Các interleukin khác như IL-7, IL-9, IL-10, IL-11, IL12, IL-13, yếu tố Steel,FGF,      PDGF,... cũng có tác dụng kích thích phát triển hồng cầu, tiểu cầu, lympho B, tế bào NK... nhưng chúng can thiệp ở các giai đoạn muộn hơn trong tiến trình tăng sinh và biệt hoá tê bào máu.

Các chất ức chế

Ngược lại với các yếu tố phát triển, các yếu tố ức chế sinh máu có thể can thiệp vào một hoặc nhiều khâu khác nhau, một hay nhiều dòng tế bào, hạn chế quá trình tăng sinh, biệt hoá và / hoặc chức năng của tế bào. Có thể liệt kê tác dụng ức chế của một số yếu tố chính mà ngày nay đã được nhiều tác giả nghiên cứu sau đây:

Yếu tố phát triển chuyển dạng β1, β2, β3 (Transíbrming grovvth factor β-TGF β ): Tác dụng tương tốc trên thụ thể serin-threonin kinase, ức chế BFU-E và CFU-S.

subunit ferritin: ức chế BFU-E, CFU-GEMM và CFU-GM. Nó ức chế CFU-GM bằng cách làm giảm tế bào đi vào chu kỳ phân bào, giảm số lượng tố bào ở tủy xương và lách, giảm bạch cầu đoạn trung tính ở máu ngoại vi.

Interferon α, β, γ và TNF α, β làm giảm nhiều loại cytokin, ức chế IL-4, CFU-GM và CFU-G.

Prostaglandin E1 và E2 (PGE) ức chế trực tiếp CFU-M, CFU-GM, CFU-G nhưng không ức chế CFU-E.

Lactoferrin là một protein gắn sắt, ức chế giải phóng CSF và IL-1.

Các chemokin (như Macrophage inílammatory protein 1α - MlP- 1α, MIP- 2a) ức chế CFU-S, CFU-GEMM, BFU-E và CFU-GM.

Các chuỗi peptid nhỏ như pentapeptid, seraspenid ức chế CFU-S, pre CFU- s và CFƯ-GM do ức chế phân bào ở pha s.

Tóm lại: Sinh máu ở người là một quá trình phức tạp bao gồm quá trình tăng sinh tế bào, quá trình biệt hoá tế bào và quá trình chết đi của tế bào với một cơ chế tự điều hoà tinh tế. Quá trình sản sinh tê bào máu còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nội tại cũng như ngoại sinh. Nghiên cứu sinh máu có vai trò quan trọng trong chẩn đoán và theo dõi điều trị các bệnh máu và cơ quan sinh máu.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top