✴️ Ghép phổi

Những trường hợp nào cần phải ghép phổi?

Chỉ định ghép phổi được đặt  ra khi bệnh phổi tiến triển nặng mà không thể cải thiện bằng bất cứ một phương pháp điều trị nào khác, và có kỳ vọng sống từ 12 đến 24 tháng khi không có ghép. Ghép phổi cũng có thể được cân nhắc ở những trường hợp mà tình trạng suy hô hấp ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống của người bệnh.

Các bệnh thường gặp có thể dẫn tới phải ghép phổi là:

  • Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (bệnh khí phế thũng và viêm phế quản mạn tính).
  • Xơ phổi vô căn.
  • Xơ nang phổi (cystic fibrosis – CF). Đây là một bệnh di truyền gây ra các vấn đề cho các tuyến tạo ra mồ hôi và chất nhầy. Bệnh tiến triển, xấu đi theo thời gian và thường là dẫn đến chết.
  • Tăng áp phổi nguyên phát. Làm tăng huyết áp ở  các  động mạch của hai phổi.
  • Bệnh tim. Bệnh tim hay các khiếm khuyết của tim ảnh hưởng đến các phổi, có thể cần đến ghép tim-phổi.
  • Các bệnh khác. Gây tổn thương nặng cho phổi, gồm: bệnh sarcoid (sarcoidosis), bệnh mô bào (histiocytosis), bệnh bạch mạch-cơ trơn (lymphangioleiomyomatosis). Một vài loại bệnh di truyền cũng có thể ảnh hưởng đến phổi.

Không phải mọi ngưới mắc các bệnh trên đây đều cần đến ghép phổi. Ghép phổi cho đến nay rất ít khi được chỉ định cho điều trị ung thư phổi.

Các phương pháp ghép phổi

  • Ghép một phổi.
  • Ghép hai phổi.
  • Ghép hai bên tuần tự (bilateral sequential) ở hai thời điểm khác nhau. Còn gọi là ghép hai bên đơn lẻ (bilateral single).
  • Ghép tim-phổi. Đều lấy từ một người cho.

Đa số ghép phổi lấy từ người cho mới chết (cadaveric transplant). Số ít hơn lấy từ người lớn khỏe mạnh, không hút thuốc, thử phù hợp miễn dịch có thể cho một thùy phổi – phương pháp này gọi là ghép từ người cho sống (living donor).

ghép phổi

Chuẩn bị để ghép phổi

Quy trình đánh giá trước khi ghép phổi khá tốn thời gian và phức tạp. Người bệnh sẽ được hỏi bệnh và thăm khám kỹ càng bởi nhiều bác sĩ chuyên khoa: nội phổi, phẫu thuật lồng ngực, tim mạch, gây mê hồi sức… Các bệnh lý mạn tính ngoài phổi như đái tháo đường, cao huyết áp… cũng phải được kiểm soát kỹ lưỡng. Người bệnh ghép phổi còn được tư vấn và chuẩn bị kỹ về tinh thần bởi các bác sỹ tâm lý.

Một số các khám nghiệm chuyên biệt cần thiết để đánh giá trước ghép phổi bao gồm:

  • Đo chức năng hô hấp toàn diện
  • Kiểm tra hoạt động của tim phổi trong điều kiện gắng sức
  • Chụp mạch vành tim
  • Đo đậm độ xương
  • XQ phổi và Chụp CT ngực
  • Xét nghiệm máu chức năng gan và thận
  • Nhóm máu và bộ tương hợp gen

Các trường hợp không nên ghép phổi bao gồm: có kèm theo bệnh tim hoặc  gan  hoặc  thận nặng, nghiện rượu hoặc ma túy, nhiễm trùng chưa được khống chế, ung thư. Các trường hợp bệnh nhân không bỏ được thuốc lá cũng không được ưu tiên ghép phổi.

Các bệnh nhân cần ghép phổi sẽ được xếp vào một danh sách chờ ghép. Thứ tự ưu tiên của ghép được đánh giá khách quan bằng thang điểm cụ thể, dựa trên những tiêu chuẩn về thời gian người bệnh có thể chịu đựng thêm bao lâu trước khi ghép phổi và thời gian có thể tiếp tục sống thêm bao lâu sau khi được ghép phổi. Người bệnh nào có điểm số cao sẽ được ưu tiên ghép trước, khi có phổi ghép phù hợp.

Quy trình ghép phổi diễn ra như thế nào?

Ngay  khi  có  phổi tương hợp  từ người cho, người nhận sẽ được nhập viện khẩn vào khoa để chuẩn bị phẫu thuật. Nếu tất cả các khám nghiệm cho phép phẫu thuật, cuộc mổ sẽ tiến hành nhanh chóng đồng thời với việc phẫu thuật lấy phổi từ người hiến và vận chuyển đến phòng mổ người nhận. Người bệnh sẽ được gây mê toàn thân. Một số các trường hợp cần phải chạy máy tim phổi nhân tạo, khi đó máu sẽ được bơm và oxy hóa bằng máy, tạm thời thay thế cho chức năng của tim và phổi.

Đường mổ của phẫu thuật ghép phổi sẽ là đường mổ dài một bên ngực nếu là ghép 1 phổi, hoặc đường mổ ngang suốt chiều dài lồng ngực nếu ghép hai phổi hoặc ghép tim-phổi.

Đâu là các nguy cơ của ghép phổi?

Các biến chứng của ghép phổi gồm có:

  • Chảy máu
  • Nhiễm trùng
  • Tắc các mạch máu đi đến phổi mới (một hay hai bên)
  • Tắc các đường thở
  • Phù phổi nặng (dịch trong phổi)
  • Các cục máu đông

Thải ghép phổi mới (một hay hai bên)

Thải ghép là nguy cơ lớn nhất của ghép. Đây là một phản ứng bình thường của cơ thể đối với vật lạ hay mô lạ. Khi một tạng được ghép vào cơ thể người, hệ miễn dịch của họ nhận ra đây là mối đe dọa và sẽ tấn công vào tạng ghép.  Để cho tạng tiếp tục sống trong cơ thể mới, dùng các thuốc để đánh lừa hệ miễn dịch và thôi tấn công vào tạng ghép. Các thuốc dùng để đề phòng và xử lý thải ghép có nhiều tác dụng phụ.

Trong một số trường hợp, người ta không thể ghép được phổi. 

Các lý do có thể là:

  • Nhiễm trùng đang có hay tái phát mà không thể điều trị
  • Ung thư đã lan rộng sang các nơi khác của cơ thể (ung thư di căn)
  • Các vấn đề nghiêm trọng của tim
  • Các vấn đề về sức khỏe khiến cho không chấp nhận được phẫu thuật
  • Các tình trạng sức khỏe nghiêm trọng ngoài bệnh phổi mà không thể tốt lên sau ghép
  • Không muốn hay không thể đáp ứng được mọi đòi hỏi của điều trị để có thể ghép phổi

phẫu thuật ghép phổi

Theo dõi sau ghép phổi

Thời gian phục hồi sau phẫu thuật tùy theo cơ địa và tình trạng bệnh kèm theo. Một số có thể xuất viện sau 1 tuần, nhưng cũng có thể kéo dài lâu hơn, nhất là khi có các biến chứng. Sau khi phẫu thuật ghép phổi thành công, người bệnh được hướng dẫn tập vật lý trị liệu và phục hồi chức năng. Người bệnh cũng được tư vấn kỹ về các loại thuốc sẽ được dùng sau khi ghép phổi cùng với lịch tái khám định kỳ. Một số các cận lâm sàng được chỉ định để theo dõi như X Quang, thử máu, đo chức năng hô hấp và soi phế quản. Một vài trung tâm ghép phổi khuyên người bệnh nên tạm thời cư trú ở gần nơi ghép trong thời gian khoảng 2-3 tháng sau ghép, để thuận tiện cho việc theo dõi tái khám hoặc xử trí kịp thời khi có các biến chứng xảy ra.

Tiên lượng sau ghép phổi

Ghép phổi thành công giúp người bệnh thoát khỏi tình trạng suy hô hấp và cải thiện chất lượng sống, quay trở lại các sinh hoạt và công việc bình thường như một liệu pháp hồi sinh. Có đến 80% các trường hợp ghép phổi thành công quay trở lại được các hoạt động thể lực và trong số các trường hợp sống sau ghép phổi từ 5 năm trở lên, có đến 40% có thể làm việc bán thời gian. Tuy vậy, một số  biến  chứng  vẫn có thể xảy ra. Tiến trình thải ghép có thể diễn ra từ từ, mà không thể dừng lại hoàn toàn. Việc sử dụng lâu dài các thuốc ức chế miễn dịch để chống lại quá trình thải  ghép này cũng có thể dẫn tới các tổn thương gan-thận hoặc dễ bị nhiễm trùng. Chính vì các lý do này, mà thời gian sống thêm sau ghép phổi không được lâu so với ghép thận hoặc ghép gan. Tỷ lệ sống thêm 1 năm sau ghép phổi là 80%, tỷ lệ sống thêm sau 3 năm là từ 55% đến 70%. Độ tuổi khi được ghép phổi là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến thời gian sống thêm.

Ghép phổi có được lựa chọn cho điều trị ung thư phổi?

Một câu hỏi thường gặp ở người ung thư phổi là: “Liệu tôi có thể được ghép phổi để chữa căn bệnh ung thư phổi?”

Trước đây ung thư phổi được coi là “chống chỉ định tuyệt đối” của ghép phổi (nghĩa là phải tránh hoàn toàn) nhưng những năm gần đây, số ca ghép phổi cho ung thư phổi có tăng lên tuy rất ít. Ghép phổi (một hay hai phổi) không phải là một lựa chọn thích hợp cho đa số bệnh nhân ung thư phổi. Lý do chính là trong đa số các trường hợp ung thư phổi, ung thư đã lan rộng tới các hạch bạch huyết ở các vùng xa của cơ thể, khi đó các điều trị toàn thân như hóa trị và các điều trị trúng đích mới là các lựa chọn hợp lý. Một lý do khác nữa là ung thư phổi có nguy cơ tái phát ngay tại phổi ghép trong các trường hợp được ghép phổi.

Ghép phổi trong ung thư phổi có thể được cân nhắc sử dụng trong 3 tình huống chính sau đây:

  • Carcinôm phế quản-phế nang (Bronchioalveolar carcinoma – BAC) tiến triển và đa ổ, gặp trong ≤ 5% các ung thư phổi, gặp nhiều hơn ở người không hút thuốc, ở nữ giới và ở tộc người các nước Đông-Á.
  • Giai đoạn sớm của ung thư phổi kết hợp với bệnh phổi giai đoạn cuối.
  • Ung thư từ một vùng khác của cơ thể di căn đến phổi, và khi ung thư nguyên phát  được  kiểm  soát  tốt. Bệnh cảnh này hết sức hiếm. Dường như chỉ có được sự đồng thuận  là  đối  với  các  trường  hợp carcinôm phế quản-phế nang, nếu được tuyển chọn cẩn thận thì ghép phổi có thể có tỷ lệ sống thêm 5 năm là xung quanh 50% – giống với tỷ lệ sống thêm của những người được ghép phổi vì các lý do khác. 70% các trường hợp mới của ung thư phổi thuộc loại ung thư tế bào nhỏ – SCLC), sớm trở nên tồi tệ. Thâm nhiễm thanh quản, tim, thực quản… thường gặp. Di căn đến gan, não, các tuyến thượng thận và các xương là quan trọng nhất, các lựa chọn chủ đạo lúc này phải là hóa trị và điều trị giảm triệu chứng, cũng có thể là xạ trị, không phải là ghép phổi.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top