Trích từ cuốn sách “Sổ tay tư vấn dành cho dược sĩ nhà thuốc – 30 triệu chứng thông thường” của TS.DS. Võ Thị Hà
Cảm lạnh (còn được gọi là cảm lạnh thông thường, viêm mũi họng, sổ mũi cấp) là tình trạng nhiễm virus nhẹ ở vùng mũi, họng, xoang và đường dẫn khí trên.
Bệnh tự khỏi, thường kéo dài 3-10 ngày; vì vậy quản lý là chủ yếu giảm triệu chứng hơn là điều trị nhiễm khuẩn.
Khi bị cảm lạnh không nên dùng thuốc kháng sinh vì không công hiệu với virus gây cảm lạnh (trừ khi bội nhiễm vi khuẩn, viêm phổi). Dùng kháng sinh có nguy cơ gặp các phản ứng có hại như nổi mẩn, các triệu chứng trên đường tiêu hóa như tiêu chảy, nôn, buồn nôn, sưng mặt, động kinh, lơ mơ…
Thuốc trị ho và cảm lạnh nằm trong top 20 chất gây tư vong hàng đầu ở trẻ < 5 tuổi. Thuốc trị cảm lạnh và ho OTC không nên dùng cho trẻ dưới 4 tuổi bởi vì nguy cơ có hại và ít mang lại lợi ích.
Rửa mũi bằng nước muối sinh lý: dạng nhỏ, xông hơi. Nên rửa mũi trước khi nhỏ các thuốc nhỏ mũi tại chỗ để làm sạch niêm mạc mũi, giúp tăng hấp thu thuốc.
Thuốc giảm đau, hạ sốt: Paracetamol và các NSAIDs giảm đau đầu, đau và sốt. Chúng không cải thiện ho hoặc chảy mũi và không giảm thời gian kéo dài của triệu chứng cảm lạnh. Aspirin (tránh dùng cho trẻ em), Naproxen, Ibuprofen (tránh dùng vì có thể tăng sự nhân lên của rhinovirus). Các thuốc NSAIDs giảm đau thứ phát khi nhiễm khuẩn hô hấp trên ở NL.
Thuốc chống nghẹt mũi: Pseudoephedrin (+ Triprolidine), Phenylephdrine, Oxymetazoline,Xylometazoline đường uống hoặc tại chổ có thể giảm tạm thời nghẹt mũi. Không nên dùng quá 3-5 ngày thuốc tại chỗ vì gây phản ứng dội ngược (nghĩa là triệu chứng chảy mũi, nghẹt mũi sẽ xuất hiện lại và có thể tệ hơn sau 72h dùng). Chúng còn có thể gây chảy máu mũi, kích thích, mất ngủ, tăng huyết áp.
Ho thường gây ra bởi nghẹt mũi và sau khi nhỏ mũi.
Nếu ho nhẹ thì nên để ho như vậy và nhớ luôn che miệng vì ho giúp tống chất nhầy và tác nhân gây bệnh khỏi họng và phổi. Nếu ho gây khó ngủ hay khó giao tiếp mới nên dùng thuốc.
Thuốc ức chế ho: có tác dụng ức chế trung tâm gây go ở thần kinh trung ương như codein, pholcodin, dextromethorphan, menthol. Dùng dextromethorphan hiệu quả hơn Codeine.
Thuốc tiêu nhày: acetylcysteine, guafenesin, bromhexin, ambroxol sẽ làm loãng đờm, giảm tiết nhày và có thể có lợi trong giảm ho.
Không nên phối hợp thuốc ức chế ho và thuốc tiêu nhày.
Thuốc kháng histamine: diphenhydramine, chlorpheniramine, doxylamin. Có tác dụng ở một số BN nhưng hiệu quả vẫn còn tranh cãi. Dùng đơn trị liệu kháng histamin (an thần hay không an thần) không cải thiện các triệu chứng cảm lạnh ở NL. Sử dụng thuốc bị hạn chế do tác dụng phụ gây lơ mơ hoặc an thần, khô mắt, mũi, miệng. Thuốc kháng histamin không có tác dụng an thần thì không hiệu quả.
Corticoid xịt mũi liều cao ở trẻ em bị hắc xìa: budesonide, beclomethasone. Không hiệu quả ở bệnh nhân NL bị cảm lạnh dù nó có lợi trong điều trị BN bị viêm mũi dị ứng.
Cromolyn sodium (bình xịt mũi): có thể giảm chảy mũi, ho và hắc xìa
Kẽm: 10-15mg/ngày, giúp giảm thời gian và mức độ nghiêm trọng của cảm lạnh. Tuy nhiên, nó có thể làm mất khướu giác.
Vitamin C: 0,2-3g/ngày, nếu bắt đầu dùng sau khi triệu chứng cảm lạnh đã khởi phát thì không làm giảm thời gian và mức độ nghiệm trọng của triệu chứng.
Các chế phẩm trị cảm lạnh phối hợp: trên thị trường có nhiều chế phẩm phối hợp nhiều thành phần để trị cảm lạnh. Cần lưu ý các thành phần của chế phẩm để tránh phối hợp nhiều chế phẩm có chung thành phần gây quá liều.
Tài liệu tham khảo
Xem thêm: Triệu chứng của COVID-19 khác gì với bệnh cảm lạnh, cảm cúm
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh