✴️ Những điều cần biết về chứng mất trí nhớ Parkinson

Căn bệnh này làm tổn thương các tế bào thần kinh chịu trách nhiệm sản xuất dopamine trong một khu vực của não. Dopamine là chất trong não có một số chức năng, bao gồm hỗ trợ chuyển động phối hợp của các cơ. Nếu không có chất dẫn truyền thần kinh này, một người cảm thấy khó khăn khi bắt đầu chuyển động và thực hiện các động tác phối hợp.

Bệnh Parkinson có thể ảnh hưởng đến các chuyển động thể chất đồng thời cũng có thể ảnh hưởng đến quá trình suy nghĩ, chức năng tâm thần và trí nhớ của người bệnh gây ra chứng mất trí nhớ do bệnh Parkinson.

Các triệu chứng thường gặp với chứng mất trí nhớ trong bệnh Parkinson

Các triệu chứng mà người bị bệnh Parkinson sa sút trí tuệ gặp phải có thể gặp bao gồm:

  • Lo lắng và cáu kỉnh;
  • Ảo giác, hoang tưởng;
  • Khó ngủ ngon;
  • Nói ngọng, nói không rõ;
  • Khó tiếp nhận và phân tích các thông tin;
  • Buồn ngủ ban ngày và có giấc ngủ chuyển động mắt nhanh (REM);
  • Thay đổi trí nhớ.

So sánh với các chứng mất trí nhớ khác

Sa sút trí tuệ là kết quả của những thay đổi vật lý trong não có thể dẫn đến mất trí nhớ và không thể phân tích thông tin một cách rõ ràng. Một số loại sa sút trí tuệ khác thường gặp bao gồm:

Bệnh Alzheimer: Theo Hiệp hội Alzheimer, bệnh Alzheimer là loại bệnh mất trí nhớ phổ biến nhất, ảnh hưởng đến từ 60 đến 80% tổng số người bị sa sút trí tuệ. Các triệu chứng bao gồm trầm cảm, hạn chế trong giao tiếp, lú lẫn, đi lại khó khăn và khó nuốt.

Bệnh Creutzfeldt-Jakob: Bệnh Creutzfeldt-Jakob (CJD) đại diện cho một số bệnh, có thể bao gồm “bệnh bò điên”. Người mắc bệnh này có thể bị thay đổi trí nhớ, hành vi và cử động nhanh chóng.

Sa sút trí tuệ với thể Lewy: Tình trạng này gây ra sự lắng đọng của alpha-synuclein trong não. Các triệu chứng có thể tương tự như của bệnh Alzheimer. Những người bị sa sút trí tuệ với thể Lewy cũng có thể bị rối loạn giấc ngủ và ảo giác thị giác, mất cân bằng khi di chuyển.

Sa sút trí tuệ vùng trán: Chứng sa sút trí tuệ vùng trán thường ảnh hưởng đến những người ở trẻ tuổi hơn và không gây ra bất kỳ thay đổi được xác định nào trong não. Tuy nhiên, tình trạng này làm thay đổi tính cách, hành vi và cách di chuyển.

Bệnh Huntington: Rối loạn di truyền này xảy ra do sự bất thường trên nhiễm sắc thể số 4 dẫn đến thay đổi tâm trạng, vận động bất thường và trầm cảm.

Sa sút trí tuệ hỗn hợp: Sa sút trí tuệ hỗn hợp xảy ra khi một người bị sa sút trí tuệ do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như sa sút trí tuệ thể Lewy với sa sút trí tuệ mạch máu hoặc bệnh Alzheimer.

Não úng thủy áp lực bình thường: là tình trạng tăng tích tụ dịch não tủy làm hệ thống não thất trong não dãn rộng, với ít hoặc không có gia tăng áp lực. Tình trạng này ảnh hưởng đến trí nhớ, chuyển động và khả năng kiểm soát tiểu tiện của một người.

Sa sút trí tuệ mạch máu: Còn được gọi là sa sút trí tuệ sau đột quỵ, tình trạng này xảy ra sau khi một người trải qua một cơn đột quỵ, xuất huyết hoặc tắc nghẽn mạch máu trong não. Loại sa sút trí tuệ này làm suy giảm khả năng suy nghĩ và chuyển động thể chất của một người.

Hội chứng Wernicke-Korsakoff: Tình trạng này xảy ra do sự thiếu hụt vitamin B1 hoặc thiamine trong thời gian dài, phổ biến nhất ở những người lạm dụng rượu. Triệu chứng chính là trí nhớ bị suy giảm nghiêm trọng.

Chứng mất trí nhớ bệnh Parkinson có các triệu chứng khác với các loại khác. Ví dụ, chứng mất trí nhớ Alzheimer làm suy giảm trí nhớ và ngôn ngữ. Mặt khác, chứng mất trí nhớ bệnh Parkinson ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề, tốc độ suy nghĩ, trí nhớ và tâm trạng, cùng với các chức năng nhận thức quan trọng khác.

Chứng sa sút trí tuệ với thể Lewy và sa sút trí tuệ do bệnh Parkinson giống nhau ở chỗ thể Lewy có thể có ở cả hai dạng. Tuy nhiên, liệu bệnh gây ra thể Lewy hay thể Lewy gây ra các triệu chứng bệnh là không rõ ràng. Các nhà nghiên cứu cũng tin rằng cách các thể Lewy hình thành trong bệnh mất trí nhớ do bệnh Parkinson khác với các cơ thể thể Lewy sa sút trí tuệ.

Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ

Các nhà khoa học hiện vẫn chưa rõ nguyên nhân nào gây ra bệnh này. Tuy nhiên, theo Johns Hopkins Medicine, bệnh Parkinson khởi phát sớm có liên quan đến việc di truyền từ cha hoặc mẹ. Các nhà nghiên cứu đã xác định một số yếu tố nguy cơ có thể khiến một người mắc bệnh Parkinson dễ bị sa sút trí tuệ hơn. Các yếu tố này bao gồm:

  • Lớn tuổi;
  • Buồn ngủ ban ngày quá mức;
  • Ảo giác trước khi bắt đầu các triệu chứng sa sút trí tuệ khác;
  • Có một triệu chứng của Parkinson cụ thể khiến một người gặp khó khăn khi di chuyển;
  • Tiền sử suy giảm trí nhớ nhẹ;
  • Các triệu chứng suy giảm vận động nghiêm trọng hơn các trường hợp khác mắc bệnh Parkinson.

Tuy nhiên, hiện vẫn chưa rõ nguyên nhân tại sao một số người bị bệnh Parkinson lại xuất hiện các tình trạng gây khó khăn về nhận thức cũng như các vấn đề về vận động.

Sự tiến triển của bệnh

Theo Hiệp hội Alzheimer, khoảng 50 đến 80% những người mắc bệnh Parkinson sẽ phát triển chứng sa sút trí tuệ. Thời gian tiến triển trung bình từ khi chẩn đoán đến khi phát triển bệnh sa sút trí tuệ là 10 năm.

Chứng mất trí nhớ bệnh Parkinson có thể làm giảm khả năng sống độc lập của một người. Ở các giai đoạn sau, tình trạng này có thể ảnh hưởng đến giao tiếp, khả năng hiểu ngôn ngữ nói, trí nhớ và sự tập trung của người bệnh.

Chẩn đoán

Một người thường được chẩn đoán bệnh Parkinson trước khi xuất hiện các triệu chứng sa sút trí tuệ nào bắt đầu và có nhiều khả năng phát triển các vấn đề về vận động trước khi có bất kỳ sự gián đoạn nào đối với quá trình suy nghĩ. Người bệnh có chẩn đoán bệnh Parkinson nên thông báo cho bác sĩ nếu gặp bất kỳ triệu chứng nào sau đây:

  • Phiền muộn;
  • Khó khăn trong suy nghĩ, phân tích vấn đề;
  • Ảo giác;
  • Mất trí nhớ;
  • Rối loạn giấc ngủ.

Một số triệu chứng này có thể là tác dụng phụ của thuốc bệnh Parkinson, nhưng nếu gặp bất kỳ triệu chứng nào trong số này nên thông báo cho bác sĩ để loại trừ chứng mất trí có thể xảy ra.

Chẩn đoán sa sút trí tuệ có thể gặp nhiều khó khăn do không có xét nghiệm hay kỹ thuật chuyên biệt nào có thể xác định chính xác sự hiện diện hoặc loại sa sút trí tuệ. Vì vậy, bước đầu tiên là kiểm tra sức khỏe tổng thể, ghi nhận bất kỳ thay đổi nào đối với trạng thái sức khỏe, vận động và hành vi theo thời gian. Người thân đôi lúc cần theo dõi chi tiết các hoạt động này do người bị bệnh Parkinson có thể không nhớ lại hoặc không nhận thức được tất cả các thay đổi kể trên.

Nếu một người bị bệnh Parkinson bắt đầu có các triệu chứng sa sút trí tuệ từ 1 năm trở lên sau khi được chẩn đoán, bác sĩ có thể chẩn đoán tình trạng này là chứng mất trí nhớ do bệnh Parkinson.

Tại thời điểm này, có thể thực hiện các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh chẳng hạn như chụp MRI. Kỹ thuật này có thể giúp xác định các thay đổi não nào có thể gây ra các triệu chứng. Ví dụ có thể là một khối u não hoặc lưu lượng máu đến não bị hạn chế. Quá trình kiểm tra có thể không nhất thiết khẳng định chứng mất trí nhớ bệnh Parkinson nhưng giúp loại trừ các nguyên nhân có thể khác.

Điều trị và phòng ngừa

Không có cách chữa khỏi chứng mất trí nhớ bệnh Parkinson. Thay vào đó, các phương pháp điều trị tập trung vào việc giảm các triệu chứng của chứng sa sút trí tuệ và duy trì chất lượng cuộc sống. Bác sĩ có thể kê một số loại thuốc, bao gồm:

Thuốc chống trầm cảm: Các bác sĩ thường kê đơn thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) để giảm các triệu chứng trầm cảm, chẳng hạn như Prozac, Celexa, Lexapro hoặc Zoloft.

Thuốc ức chế men cholinesterase: Những loại thuốc này giúp giảm tác động của sự suy giảm nhận thức ở những người bị sa sút trí tuệ.

Clonazepam: Có thể giúp cải thiện chất lượng giấc ngủ.

L-dopa: Thuốc này có thể làm giảm các vấn đề về vận động mà bệnh Parkinson có thể gây ra nhưng có thể làm cho các triệu chứng rối loạn và sa sút trí tuệ tồi tệ hơn.

Các bác sĩ cũng có thể kê đơn thuốc chống loạn thần (antipsychotic) nhưng phải thận trọng vì chúng có thể làm giảm các đợt loạn thần nhưng lại có tác dụng ngược là làm tăng các triệu chứng của bệnh Parkinson. Những loại thuốc này cũng có thể gây ra lú lẫn và thay đổi ý thức.

Năm 2016, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt pimavanserin hay Nuplazid -  một loại thuốc chống loạn thần. Nghiên cứu đã chứng minh rằng loại thuốc này có thể điều trị hiệu quả chứng ảo giác mà không gây ra tác dụng phụ của một số loại thuốc chống loạn thần khác.

Bác sĩ có thể kê đơn kết hợp các loại thuốc này để có kết quả an toàn và hiệu quả nhất. Tuy nhiên cần cân nhắc về cả lợi ích và tác dụng phụ khi xem xét phương pháp điều trị.

Những người bị Parkinson cũng có thể cần hỗ trợ từ liệu pháp vật lý trị liệu và ngôn ngữ để tăng cường khả năng vận động và giao tiếp.

Tổng kết

Tuổi thọ của những người mắc chứng sa sút trí tuệ trong bệnh Parkinson khác với những người không có triệu chứng sa sút trí tuệ.

Một nghiên cứu năm 2017 được công bố trên tạp chí JAMA Neurology cho thấy rằng mặc dù bệnh Parkinson không có sa sút trí tuệ nhưng tỷ lệ tử vong chỉ tăng vừa phải so với dân số chung. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong của những người mắc chứng mất trí nhớ bệnh Parkinson đã tăng lên rất nhiều.

Mặc dù chứng sa sút trí tuệ ảnh hưởng đến tỷ lệ sống nhưng nhiều loại thuốc, phương pháp điều trị và các biện pháp hỗ trợ có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc sống cho người mắc bệnh Parkinson.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Bệnh viện Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

return to top