Không cần phải chấn thương quá nặng, chỉ cần những chấn thương não nhẹ hoặc thậm chí các vết thương rất nhỏ có thể góp phần gây ra chấn thương não mãn tính.
Sau một chấn động, một số người có hội chứng sau chấn động, bao gồm các triệu chứng như nôn, đau đầu và nhầm lẫn. Nhưng chấn thương não mãn tính không đơn giản chỉ là hội chứng sau chấn động kéo dài. Chấn thương não mãn tính có thể xảy ra vài năm sau đó, còn hội chứng sau chấn động thường chỉ xảy ra rất ngắn sau khi bị chấn thương đầu.
Mặc dù chấn thương não mãn tính khác so với bệnh Alzheimer ở nhiều điểm, chúng có chung một yếu tố nguy cơ di truyền. ApoE4 là yếu tố nguy cơ di truyền trong bệnh Alzheimer muộn. Những người có đột biến gen ApoE4 thường có thời gian hồi phục kéo dài hơn sau chấn thương đầu và có những thiếu hụt nghiêm trọng hơn sau một chấn thương đầu đơn thuần. Tuy nhiên, những nghiên cứu khác cho rằng không có mối liên hệ giữa chấn thương não mãn tính và ApoE4. Cần nhiều nghiên cứu hơn về mối quan hệ này.
Phụ nữ thường hồi phục lâu hơn sau chấn độn, so với nam giới, nhưng vẫn chưa rõ liệu điều này có dẫn đến nguy cơ khác tiến triển chấn thương não mãn tính hay không.
Hầu hết những người bị chấn thương não mãn tính được nghiên cứu là nam giới do phần lớn là vận động viên hoặc làm trong quân đội. Những thay đổi trong não bộ liên quan đến chấn thương não mãn tính đã được tìm thấy ở những người khá trẻ với đa chấn thương đầu, nhưng sự thay đổi tồi tệ dần theo tuổi.
Thông thường ổn thương não mạn tính chỉ được chẩn đoán bằng khám nghiệm tử thi.
Những protein nhất định như tau và TDP-43 tích tụ trong não. Tình trạng này khác với bệnh Alzheimer, khi các mảng beta amyloid xuất hiện ít hơn trong một nửa các trường hợp chấn thương não mãn tính. Hơn nữa, những thay đổi ban đầu phổ biến hơn xung quanh mạch máu.
Mặc dù sự cần thiết cuối cùng để xác nhận là khám tử thi, có một số triệu chứng có giá trị gợi ý đến chấn thương não mãn tính, bao gồm:
Ngoài ra, có một số dấu hiệu bên ngoài của chấn thương não mãn tính có thể xuất hiện bao gồm:
Cũng có một nhóm nhỏ những bệnh nhân chấn thương não mãn tính có tổn thương não tủy mạn tính do chấn thương. Rối loạn này có triệu chứng tương tự với triệu chứng của bệnh Lou Gehrig (ALS) như tình trạng yếu cơ và khó nuốt và tăng phản xạ.
Sau này trong quá trình chấn thương não mãn tính, những bệnh nhân sẽ có chứng mất trí nhớ. So với bệnh Alzheimer, những triệu chứng của chấn thương não mãn tính thường gần giống với biến thể hành vi của chứng sa sút trí tuệ ở giai đoạn đầu (bvFTD). Tuy nhiên chấn thương não mãn tính thường đến sớm hơn bvFTD giữa lứa tuổi 30-50 hơn là 45-65 tuổi.
btFTD thường tiến triển nhanh hơn chấn thương não mãn tính, và thường có một thành phần gen mà chấn thương não mãn tính không có.
Có sự giảm khối lượng não và mỏng thể chai, là liên kết 2 bán cầu não.
Cũng có sự teo thùy trán trong chấn thương não mãn tính. Thùy trán kiểm soát khả năng đưa ra quyết định và kế hoạc cũng như cho phép chúng ta ghi nhớ.
Những vùng ảnh hướng khác của não bao gồm thể vú, và hồi hải mã liên quan đến trí nhớ cũng như chất đen liên quan đến vận động.
Trong khi sự nhận thức của cộng đồng về chấn thương não mãn tính đã tăng lên nhanh chóng, khoa học đặc biệt chậm hơn với sự phát triển các xét nghiệm để chỉ ra vấn đề. Chụp cộng hưởng từ MRI có thể loại trừ các bệnh khác và có thể cho thấy những vấn đề bất thường của hạnh nhân, có thể gợi ý đến chấn thương não mãn tính. Những kĩ thuật khác như chụp cộng hưởng từ chức năng cũng được sử dụng.
Không có điều trị với chấn thương não mãn tính một khi nó tiến triển. Phòng bệnh là cách tốt nhất.
Sự cần thiết của an toàn trong thể thao và cả cuộc sống cần đặc biệt được chú ý. Vận động viên cần được khuyến khích nói ra nếu họ có những ảnh hưởng của chấn thương đầu và tuân theo hướng dẫn để quay lại chơi sau một chấn thương. Vai trò của hướng dẫn viên với những kĩ thuật đúng để bảo vệ cá nhân cũng rất quan trong. Cần phải chơi an toàn bên cạnh chơi hết mình.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh