Ung thư cổ tử cung là một loại ung thư thường gặp ở phụ nữ, xảy ra do sự biến đổi ác tính của các tế bào ở cổ tử cung. Cổ tử cung nhỏ và hẹp kết nối tử cung với âm đạo, là nơi dẫn máu kinh nguyệt thoát ra ngoài, dẫn tinh trùng vào tử cung và mở rộng đưa thai nhi ra ngoài trong quá trình sinh nở.
Có hai phần của cổ tử cung chứa hai loại tế bào khác nhau là:
Kênh cổ tử cung (Endocervix): Phần trong cùng của cổ tử cung là phần dẫn từ tử cung vào âm đạo chứa các tế bào cột chịu trách nhiệm tiết chất nhầy.
Rìa cổ tử cung (Ectocervix): Đây là phần bên ngoài của cổ tử cung, và nhô vào âm đạo. Các tế bào tử cung là nơi chứa các tế bào vảy, có dạng như vảy cá khi nhìn dưới kính hiển vi.
Vùng giao nhau giữa hai loại tế bào này là nơi mà hầu hết ung thư cổ tử cung và tế bào tiền ung thư hình thành.
Pap smear là một phương pháp sàng lọc có thể giúp phát hiện các tế bào bất thường và ung thư thông qua việc phần tích các mẫu tế bào được lấy từ cổ tử cung.
Sàng lọc ung thư cổ tử cung có vai trò rất quan trọng để chẩn đoán sớm ung thư cổ tử cung. Nếu được chẩn đoán ung thư sớm, điều trị hiệu quả là điều hoàn toàn có thể.
Có hai xét nghiệm thường được đề nghị nhằm mục đích chẩn đoán ung thư cổ tử cung sớm bao gồm:
Các kết quả xét nghiệm này có thể giúp xác định liệu một người có bị ung thư cổ tử cung hay không hoặc nguy cơ mắc phải ung thư. Những xét nghiệm này có thể giúp phát hiện:
Sàng lọc định kỳ không phải lúc nào cũng bao gồm cả hai xét nghiệm cùng một lúc, nhưng một người có thể yêu cầu xét nghiệm đồng thời cả HPV và Pap smear.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS), tỉ lệ tử vong do ung thư cổ tử cung đã giảm đáng kể nhờ phết tế bào Pap.
Bác sĩ thường tiến hành phết tế bào Pap trong khi khám phụ khoa. Sau khi chèn mỏ vịt vào âm đạo để có thể kiểm tra cổ tử cung, mẫu tế bào cổ tử cung sẽ được thu thập bằng một bàn chải mềm và được gửi đi xét nghiệm.
Nếu có thể, tốt nhất là tránh làm phết Pap trong chu kỳ kinh nguyệt, đặc biệt nếu rong kinh quá nhiều, vì điều này có thể ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm.
Không nên thụt rửa hoặc đặt bất cứ thứ gì vào âm đạo trước khi tiến hành lấy mẫu.
Khuyến nghị về tần số phết tế bào Pap phụ thuộc vào một số yếu tố bao gồm:
Các chuyên gia khuyến nghị răng:
Những trường hợp đã có kết quả xét nghiệm bất thường trước đó và những người nhiều bạn tình có thể cần xét nghiệm thường xuyên hơn.
Sau khi cắt bỏ tử cung hoàn toàn bao gồm phẫu thuật cắt bỏ tử cung và cổ tử cung, có thể không cần phải tiếp tục thực hiện xét nghiệm Pap.
Tuy nhiên, bất cứ ai phẫu thuật cắt tử cung do có các tế bào ung thư hoặc tiền ung thư nên tiếp tục kiểm tra thường xuyên.
Mỗi trường hợp đều có những tình trạng khác nhau, vì vậy cần nói chuyện với bác sĩ về các yếu tố nguy cơ và nhu cầu sàng lọc ung thư cổ tử cung của bản thân.
Để có được kết quả phết tế bào cổ tử cung, có thể mất khoảng từ 1-3 tuần. Hầu hết các kết quả xét nghiệm đều âm tính, nhưng đôi khi chúng có thể dương tính. Kết quả dương tính không xác nhận rằng một người bị ung thư, nhưng nó cho biết rằng cần phải thực hiện các xét nghiệm kiểm tra thêm.
Trong hầu hết các phiến đồ Pap, kết quả là bình thường và không phát hiện bất kỳ tế bào bất thường nào.
Đôi khi kết quả là không rõ ràng, bác sĩ có thể yêu cầu thực hiện thêm các xét nghiệm để theo dõi sự thay đổi. Các xét nghiệm bổ sung này có thể sẽ diễn ra ngay sau nghiệm đầu tiên hoặc 6 tháng sau đó.
Đôi khi kết quả có sự bất thường. Bác sĩ có thể đề nghị nhiều xét nghiệm ngay sau khi có kết quả hoặc sau 6 tháng tùy thuộc vào mức độ thay đổi của tế bào.
Các bất thường tế bào thường gặp bao gồm:
Bác sĩ thường sẽ khuyên nên theo dõi bằng soi cổ tử cung, có hoặc không có sinh thiết. Trong quá trình soi cổ tử cung, bác sĩ sử dụng máy soi cổ tử cung để phóng to hình ảnh của cổ tử cung, âm hộ và âm đạo để kiểm tra, đồng thời có thể lấy mẫu sinh thiết để đánh giá chi tiết.
Sự biến đổi của các tế bào được chia thành hai loại:
Có thể phân loại các thay đổi của tế bào như sau:
Sàng lọc và các biện pháp phòng ngừa có thể làm giảm đáng kể nguy cơ ung thư cổ tử cung. Ung thư cổ tử cung giai đoạn đầu thường không có triệu chứng cho đến khi xuất hiện chảy máu âm đạo thì đã ở giai đoạn cuối. Đây là lý do tại sao sàng lọc và thăm khám định kì là cực kì quan trọng.
Các yếu tố nguy cơ phát triển ung thư cổ tử cung bao gồm:
Các bác sĩ cũng khuyên không nên thụt rửa, vì điều này có thể làm tăng khả năng nhiễm khuẩn âm đạo.
HPV là một loại virus có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung trong một số trường hợp. Có hơn 150 loại HPV, tuy nhiên chỉ có một số loại ví dụ như loại 16 và 19 có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung. HPV có thể truyền từ người này sang người khác khi quan hệ tình dục qua đường âm đạo, hậu môn hoặc miệng khi có tiếp xúc da kề da.
Tình trạng nhiễm HPV thường được giải quyết trọng một thời gian ngắn. Nếu nhiễm HPV trong thời gian dài, nguy cơ ung thư sẽ tăng lên.
Các loại virus HPV khác có thể gây các biến chứng khác nhau như mụn cóc không ung thư hoặc u nhú đều có thể điều trị được.
Tiêm vắc-xin có thể bảo vệ cơ thể khỏi việc lây nhiễm HPV. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã khuyến nghị nên tiêm vắc-xin đầy đủ với phụ nữ trẻ dưới 26 tuổi và nam thanh niên dưới 21 tuổi.
Tuy nhiên, vào năm 2018, Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã đề xuất một dạng vắc-xin có tên là Gardasil 9, giúp bảo vệ chống lại vi-rút, cho nam giới và phụ nữ ở độ tuổi 27-45 tuổi.
Ung thư cổ tử cung là một loại ung thư phổ biến ở phụ nữ. Trước khi phát triển thành ung thư, các tế bào cổ tử cung trải qua những thay đổi bất thường mà xét nghiệm Pap có thể phát hiện.
Với chẩn đoán sớm và điều trị thích hợp, tỉ lệ sống sót khi mắc phải ung thư cổ tử cung là rất lớn.
Nếu bác sĩ chẩn đoán ung thư cổ tử cung ở giai đoạn sớm nhất, người đó có cơ hội sống sót 93% trong ít nhất 5 năm nữa. Tuy nhiên, nếu chẩn đoán xảy ra khi ung thư cổ tử cung ở giai đoạn muộn nhất, khả năng sống sót giảm xuống còn 15%.
Các chuyên gia lưu ý rằng ung thư cổ tử cung là ung thư phụ khoa dễ phòng ngừa nhất bằng các phương pháp sàng lọc ung thư định kì và tiêm ngừa đẩy đủ vắc-xin HPV.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh