✴️ Xét nghiệm chức năng đông máu

Tìm hiểu về: Các thành phần của máu

Cơ chế đông máu

Chỉ trong vài giây sau khi một mạch máu bị cắt, phần mô bị tổn thương này sẽ khiến cho các tiểu cầu trong máu kết dính và vón lại với nhau xung quanh vết cắt. Những tiểu cầu “được kích hoạt” này và phần mô bị tổn thương giải phóng ra các chất hóa học – được gọi là các yếu tố đông máu – có khả năng phản ứng với các hợp chất và một số loại protein khác trong huyết tương, tạo ra một chuỗi các phản ứng hóa học phức tạp và diễn ra nhanh chóng xung quanh vết cắt. Có tất cả 13 yếu tố đông máu được biết đến và được gọi bằng số La Mã – từ yếu tố I đến yếu tố XIII.

Bước cuối cùng của chuỗi phản ứng hóa học này là sự hình thành các sợi mỏng (là tập hợp của một loại protein bền vững tên là fibrin) từ sự biến đổi yếu tố I (còn gọi là fibrinogen – một loại protein hòa tan). Các sợi fibrin này tạo thành một chiếc lưới, bẫy các tế bào máu và tiểu cầu, tạo thành cục máu đông.

Một cục máu đông tự nhiên hình thành trong mạch máu khỏe mạnh có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng. Vì vậy, trong máu cũng tồn tại những hợp chất hóa học ngăn ngừa sự hình thành các cục máu đông và các hợp chất hóa học “hòa tan” các cục máu đông này. Sự cân bằng giữa việc hình thành các cục máu đông và ngăn ngừa đông máu luôn được đảm bảo. Thông thường, trừ khi một mạch máu bị cắt hoặc bị phá hủy, sự cân bằng này nghiêng về phía ngăn ngừa hình thành các cục máu đông trong mạch máu.

Các rối loạn về chảy máu

Có một số điều kiện dẫn đến tình trạng bị chảy máu quá nhiều khi mạch máu bị tổn thương hoặc bị cắt, như trong các trường hợp sau:

  • Có quá ít tiểu cầu trong máu (bệnh giảm tiểu cầu) do một số nguyên nhân khác nhau.
  • Do đặc điểm di truyền, cơ thể bạn không tạo ra được một hoặc một vài yếu tố đông máu. Trường hợp được biết đến nhiều nhất là bệnh haemophilia A (bệnh máu khó đông A); xảy ra ở những người không có khả năng tạo ra yếu tố đông máu số VIII.
  • Thiếu vitamin K. Loại protein có vai trò trong việc tạo ra một số yếu tố đông máu, có thể gây ra các vấn đề về chảy máu.
  • Rối loạn trong gan. Bởi vì gan là nơi hình thành hầu hết các yếu tố đông máu – cũng có thể gây ra các vấn đề về chảy máu.

Các rối loạn về đông máu

Đôi khi một cục máu đông hình trong mạch máu kể cả khi không có vết thương hoặc vết cắt, chẳng hạn như các trường hợp sau:

  • Nguyên nhân phổ biến của các cơn đau tim và đột quỵ là do sự hình thành cục máu đông trong động mạch đưa máu đến tim hay não. Đó là do các tiểu cầu trở nên kết dính và vón cục ở gần các mảng xơ vữa (các khối chất béo) trong mạch máu và kích hoạt cơ chế đông máu.
  • Lưu lượng máu chảy chậm có thể khiến sự đông máu dễ dàng hơn so với bình thường. Đây là một yếu tố dẫn đến sự hình thành các cục máu đông ở các tĩnh mạch sâu dẫn đến chứng nghẽn mạch máu (huyết khối tĩnh mạch sâu – DVT), điều này thỉnh thoảng xảy ra ở các tĩnh mạch chân.
  • Do một số đặc điểm di truyền có thể khiến máu đông dễ dàng hơn bình thường.
  • Một số loại thuốc có thể ảnh hưởng đến cơ chế đông máu, hoặc làm tăng số lượng một số yếu tố đông máu, dẫn đến hiện tượng đông máu dễ dàng xảy ra hơn.
  • Rối loạn trong gan đôi khi có thể gây ra các vấn đề về đông máu, bởi gan là nơi hình thành một số hợp chất hóa học có liên quan đến việc ngăn ngừa và hòa tan cục máu đông.

Các xét nghiệm đông máu

Bạn có thể được tư vấn thực hiện các xét nghiệm đông máu trong những trường hợp sau:

  • Nghi ngờ có rối loạn chảy máu. Ví dụ: bạn bị chảy máu rất nhiều từ các vết cắt, hoặc dễ bị bầm tím.
  • Mắc phải một số bệnh gan mà có thể ảnh hưởng đến việc tạo ra các yếu tố đông máu.
  • Trước khi phẫu thuật, trong những hoàn cảnh nhất định, để đánh giá nguy cơ chảy máu trong quá trình phẫu thuật.
  • Nếu có những cục máu đông xuất hiện trong mạch máu mà không có lý do rõ ràng.
  • Nếu bạn uống thuốc chống đông máu như warfarin (để kiểm tra xem liều dùng có đạt mục tiêu đích hay không).

Có nhiều xét nghiệm đông máu khác nhau, việc xét nghiệm nào được chọn phụ thuộc vào hoàn cảnh và các vấn đề nghi ngờ. Các xét nghiệm đông máu bao gồm:

Xét nghiệm công thức máu

Là xét nghiệm thường quy, được sử dụng để đếm số lượng tế bào hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu trong mỗi ml máu. Xét nghiệm này sẽ phát hiện được số lượng tiểu cầu trong máu thấp nếu có.

Xét nghiệm thời gian chảy máu

Xét nghiệm này được thực hiện bằng cách tạo một vết cắt nhỏ trên dái tai hoặc cánh tay và đo thời gian máu ngừng chảy. Khoảng thời gian bình thường là 3 đến 8 phút.

Các xét nghiệm đông máu thông thường

Mẫu máu sau khi lấy được cho vào ống nghiệm có chứa chất chống đông, sau đó được đem đi phân tích trong phòng thí nghiệm. Có thể thực hiện nhiều xét nghiệm, chẳng hạn như các xét nghiệm phổ biến là xét nghiệm PT hay xét nghiệm APTT để kiểm tra hoạt động của các yếu tố đông máu. Các xét nghiệm này được thực hiện bằng cách đo thời gian hình thành cục máu đông sau khi bổ sung một số chất đã kích hoạt vào mẫu máu. Nếu thời gian hình thành cục máu đông dài hơn so với mẫu máu bình thường thì có nghĩa là một hoặc nhiều yếu tố đông máu ở mức thấp hoặc không có trong mẫu xét nghiệm. Những xét nghiệm này có cơ chế tương tự, chỉ khác ở thành phần các chất hóa học được bổ sung vào mẫu máu, nhằm mục đích xác định yếu tố đông máu nào thấp hoặc không có.

Xét nghiệm để theo dõi sử dụng thuốc chống đông máu

Nếu đang dùng một số loại thuốc chống đông máu (thuốc làm giảm khả năng hình thành cục máu đông) bạn cần theo dõi cẩn thận phản ứng của cơ thể trong quá trình sử dụng. Dùng thuốc quá nhiều có thể gây ra các vấn đề về chảy máu, sử dụng thuốc với liều lượng quá ít có thể làm tăng nguy cơ hình thành các cục máu đông. Xét nghiệm INR là xét nghiệm được sử dụng để theo dõi liều lượng thuốc (thường là warfarin) cho người dùng. Chỉ số INR của bạn được tính toán trong phòng thí nghiệm bằng cách sử dụng xét nghiệm PT như đề cập ở trên. Bác sĩ hoặc y tá sẽ thiết lập một mức INR ‘đích’ cho bạn, tùy thuộc vào lý do bạn sử dụng thuốc. Bằng cách kiểm tra máu của bạn đều đặn, họ có thể tư vấn điều chỉnh liều thuốc để đạt được mức INR ‘đích’ này.

Xét nghiệm các yếu tố đông máu cụ thể

Số lượng của nhiều yếu tố đông máu (và các yếu tố chống đông máu) trong máu có thể được xác định bằng một số kỹ thuật khác nhau. Bạn có thể cần phải thực hiện một hoặc nhiều xét nghiệm loại này khi xét nghiệm đông máu thông thường của bạn cho thấy kết quả có vấn đề với tình trạng máu đông. Ví dụ: xác định số lượng yếu tố VIII trong mẫu máu để kiểm tra bạn có bị bệnh Haemophili A hay không (đối với những người bị bệnh Haemophili A thì yếu tố này ở mức rất thấp hoặc không có).

Xét nghiệm khả năng tiểu cầu ngưng kết

Xét nghiệm này được sử dụng để đo tốc độ và mức độ các tiểu cầu kết tủa lại (ngưng kết) sau khi bổ sung một chất hóa học thúc đẩy quá trình ngưng kết vào mẫu máu. Xét nghiệm này được sử dụng để kiểm tra chức năng của tiểu cầu.

Xét nghiệm kiểm tra tình trạng máu dễ đông

Nếu bạn có một cục máu đông bất thường hình thành trong một mạch máu bình thường, bạn có thể cần thực hiện một số xét nghiệm để xác định nguyên nhân. Ví dụ: xét nghiệm máu kiểm tra ‘yếu tố V Leiden’. Đây là một sự thay đổi bất thường của yếu tố V – khiến cho các cục máu đông dễ hình thành hơn.

Các xét nghiệm khác

Có nhiều tình trạng khác có thể ảnh hưởng đến sự đông máu như do thiếu vitamin, do bệnh bạch cầu, rối loạn trong gan, hoặc nhiễm trùng. Vì vậy, trong một số trường hợp, các xét nghiệm khác là cần thiết để tìm ra nguyên nhân dẫn đến số lượng bất thường của tiểu cầu hoặc của các yếu tố đông máu.

Xem thêm: Xét nghiệm máu lắng

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top