SƠ LƯỢC LỊCH SỬ
Phương pháp phòng và chữa bệnh bằng cách châm kim vào loa tai ra đời từ thời đại nào đến nay chưa được khẳng định chắc chắn.
Theo tài liệu "Nhĩ châm" xuất bản năm 1972 của Trung Quốc: khoảng thế kỷ II - III, Trương Trọng Cảnh đã dùng nước hẹ đổ vào tai để cấp cứu chết đột ngột. Tôn Tư Mạc (thế kỷ VI - VII) châm cứu vùng đối vành tai (ngang với lỗ tai) để chữa bệnh vàng da. Giữa đời Đường , Trần Trọng Khí dùng xác rắn nút lỗ tai chữa sốt rét. Đời Nguyên, cứu mạch máu sau tai để chữa kinh phong trẻ em. Đời Minh, cứu mỏm tai để chữa mắt có màng. Trong Khí công có phương pháp ép lỗ tai, gõ trống trời, bật vành tai để bảo vệ tai và nâng cao sức khoẻ chung.
P.Nogier (Pon - no - gi - e) người Pháp (Ông không tham khảo các tài liệu cổ của Trung Quốc?), đã có công quan sát kỹ lưỡng sự liên hệ giữa loa tai và các bộ phận bên trong cơ thể, xây dựng thành công sơ đồ loa tai (1957), đã áp dụng vào lâm sàng có hiệu quả làm cho châm loa tai có bước tiến nhảy vọt.
Từ năm 1962, Trung Quốc cho xuất bản tài liệu tập hợp các báo cáo về các phương pháp châm loa tai; năm 1972 xuất bản tiếp tài liệu "Nhĩ châm" và là nước đầu tiên dùng một số huyệt trên loa tai để gây tê trong phẫu thuật.
Việt Nam, từ năm 1960 Viện nghiên cứu Đông y đã tìm hiểu và nghiên cứu phương pháp chữa bệnh này.
GIẢI PHẪU LOA TAI
Các bộ phận của loa tai:
Vành tai: bộ phận viền ngoài cùng của loa tai.
Chân vành tai: bộ phận của vành tai đi vào nằm nổi ngang ở trong xoắn tai: chỗ ranh giới của vành tai và chân vành tai là đường kéo dài của thành sau ống tai ngoài.
Lồi củ vành tai: chỗ hơi lồi lên ở chỗ trên sau của tai.
Đuôi vành tai: chỗ ranh giới của đoạn cuối vành tai và dái tai.
Đối vành tai: bộ phận nổi lên ở phía trong và đối xứng với vành tai, phía trên chia làm 2 nhánh.
Chân trên đối vành tai: nhánh phía trên của đối vành tai.
Chân dưới đối vành tai: nhánh phía dưới của đối vành tai.
Hố tam giác: chỗ lõm hình tam giác giữa chân trên đối vành tai và chân dưới đối vành tai.
Thuyền tai: rãnh lõm giữa vành tai và đối vành tai.
Bình tai: chỗ nổi lên như bình phong phía trước loa tai.
Đối bình tai: phần nổi lên ở phía dưới đối vành tai, đối xứng với bình tai.
Rãnh trên bình tai: chỗ lõm giữa vành tai và bờ trên bình tai.
Rãnh bình tai: chỗ lõm giữa bình tai và đối bình tai.
Dái tai: phần không có sụn ở phần dưới cùng của loa tai.
Xoắn tai trên: phần trên chân vành tai của xoắn tai
Xoắn tai dưới: phần dưới chân vành tai của xoắn tai.
Lỗ tai: ở trong xoắn tai.
Thần kinh chi phối:
Phần lớn vành tai, đối tai, thuyền tai do thần kinh tai to chi phối; phần còn lại (chủ yếu phần trên cao) do thần kinh chẩm nhỏ chi phối.
Hố tam giác có thần kinh tai thái dương, tai to và chẩm nhỏ; chúng hợp thành đám rối thần kinh dưới hố tam giác.
Thần kinh phân bố ở xoắn tai trên và dưới là thần kinh phế vị, nhánh sau tai của dây thần kinh mặt, dây V, dây thần kinh tai to cũng chi phối một phần nhỏ ở đây. Các dây thần kinh này hợp thành đám rối thần kinh ở dưới da xoắn tai.
Dái tai có các dây thần kinh tai - thái dương và dây tai to.
Mặt sau loa tai 1/3 trên có dây thần kinh chẩm nhỏ; 2/3 dưới có dây thần kinh tai to và nhánh sau tai của dây thần kinh mặt chi phối. Rãnh hạ áp ở mặt sau loa tai do dây phế vị chi phối.
Mạch máu nuôi dưỡng:
Động mạch thái dương nông có 3 - 4 nhánh đến trước tai, hố tam giác dái tai.
Động mạch sau tai có 2 nhánh: nhánh động mạch tai sau và nhánh động mạch tai trước. Nhánh động mạch sau tai đi cùng với dây thần kinh mặt, dây tai to, xuyên qua dái tai đến mặt trước loa tai, nuôi dưỡng 2/3 dưới của thuyền tai, đối vành tai, đỉnh của hố tam giác, xoắn tai trên và một phần vành tai.
Các tĩnh mạch nhỏ của mặt trước loa tai cũng đổ vào tĩnh mạch thái dương nông; 3 - 5 tĩnh mạch nhỏ ở mặt sau loa tai cũng đổ vào tĩnh mạch sau tai.
Phân vùng ở loa tai:
Theo Nogier (Nô - gi - ê), loa tai đại biểu cho hình thái của bào thai lộn ngược ở trong tử cung người mẹ đầu chúc xuống dưới, chân ở trên.
Vị trí khái quát của các vùng đại biểu đó sắp xếp như sau: thuyền tai; vùng chi trên. Đối vành tai: vùng của thân và chi dưới chân ở trên. Dái tai: vùng đầu. Bờ của đối vành tai: cột sống. Xoắn tai trên: tạng ở bụng. Xoắn tai dưới: tạng ở ngực. Diện tích đi từ ống tai ngoài đến bao quanh bờ trên và bờ dưới của chân vành tai: ống tiêu hóa từ miệng đến ruột già. Chân vành tai: cơ hoành.
Cụ thể phân bố như sau:
Chi trên:
Chủ yếu ở thuyền tai, từ trên xuống lần lượt là: ngón tay, bàn tay, cổ tay, cẳng tay, khuỷu tay, khớp vai, xương đòn.
Chọn một số vị trí làm mốc: cổ tay ngang với lồi củ vành tai, vai ngang với rãnh trên bình tai, xương đòn ngang với chỗ đối vành tai và đối bình tai giao nhau.
Chi dưới:
Chủ yếu ở trên hai chân đối vành tai:
Chân trên đối vành tai: lần lượt từ trên xuống là ngón chân, bàn chân, cẳng chân, đầu gối.
Chân dưới đối vành tai sau từ sau ra trước có mông và điểm dây thần kinh hông.
Bụng, ngực, sống lưng:
Bụng, ngực nằm trên đoạn hợp nhất của hai chân đối vành tai, bụng ở trên ngang với bờ dưới của chân dưới đối vành tai, ngực ở dưới ngang với chân vành tai.
Sống lưng chạy suốt từ bờ dưới chân dưới đối vành tai vòng xuống hết đối vành tai:
L5 - L1 tương ứng bờ dưới của chân dưới đối vành tai.
D12 - D1 tương ứng bờ trong của đoạn chạy thẳng của đối vành tai.
C1 - C7 tương ứng bắt đầu từ chỗ tiếp giáp với đối bình tai lên đến đoạn nối với đốt sống lưng (D1).
Đầu:
Trán: phía trước và dưới đối bình tai.
Chẩm: phía sau và trên đối bình tai.
Mắt giữa dái tai.
Mũi: phần bờ bình tai thuộc xoắn tai dưới.
Miệng: bờ ngoài ống tai.
Nội tạng:
Xoắn tai trên: đại trường, tiểu trường. Dạ dày lần lượt nằm sát phía trên chân vành tai (dạ dày bao vòng chỗ tận cùng của chân vành tai); giữa đại trường, tiểu trường là ruột thừa, bàng quang. Thận ở phía trên song song với đại - tiểu trường; sau thận là tụy (loa tai trái) hoặc túi mật (loa tai phải); gan ở sau dạ dày và dưới gan là lách.
Xoắn tai dưới: tâm vị, thực quản nằm sát bờ chân dưới vành tai, phía trước dạ dày. Tim, phổi nằm ở giữa lòng xoắn tai dưới.
Vùng dưới vỏ:
Thành trong của đối bình tai. Thần kinh giao cảm: đoạn che kín của chân dưới đối vành tai đi đến vành tai.
Sinh dục ngoài, niệu đạo, trực tràng:
Trên vành tai tương đương với chân dưới đối vành tai, xếp từ trên xuống.
Tử cung (tinh cung):
Trong hố tam giác, vùng giữa bờ phía vành tai của hố tam giác.
Vị trí các vùng trên loa tai, đại biểu cho các đại biểu trên thân thể, hệ thống lại theo cách này là hợp lý và đã được thực tiễn kiểm định nên độ tin cậy khá hơn. Chú ý: các huyệt mới được bổ sung sau này do chưa được lâm sàng xác minh đầy đủ nên chỉ để tham khảo.
Ứng dụng loa tai trong điều trị:
Trong phương pháp châm kim ở loa tai (nhĩ châm) để chữa bệnh, người ta dùng 3 cách sau:
Một là dùng huyệt a thị (cũng có thầy thuốc vừa châm kim ở các huyệt của 14 đường kinh của thân thể vừa châm vào huyệt a thị ở loa tai).
Hai là châm kim vào các vùng ở loa tai được quy ước là có quan hệ với nơi đang có bệnh. Ví dụ: bệnh dạ dày châm vào vùng dạ dày. Bệnh ở vùng đầu gối châm vào vùng đầu gối; đau thần kinh hông châm vùng thần kinh hông. Cách này tuy chưa đầy đủ, nhưng đơn giản dễ áp dụng.
Ba là dùng các điểm phản ứng trên loa tai theo lý luận YHHĐ và YHCT. Thực tế chỉ rõ cách này đem lại kết quả tốt. Ví dụ: đau mắt đỏ cần châm vùng gan, mắt để bình can giáng hỏa (theo lý luận YHCT). Tắc tia sữa châm vùng tuyến vú, nội tiết để thông sữa (theo YHHĐ), hành kinh đau bụng châm vùng tử cung, thận, giao cảm, nội tiết (kết hợp YHCT và YHHĐ ).
Các thầy thuốc ngày càng có xu hướng kết hợp cách thứ ba với huyệt a thị tìm thấy trên loa tai trong một công thức điều trị.
Điểm phản ứng bệnh lý xuất hiện tại các vùng đại biểu ở loa tai của các cơ quan, nội tạng bị bệnh, trong khá nhiều trường hợp giúp cho thầy thuốc hướng chẩn đoán, xác định cơ quan tạng phủ bị bệnh. Ví dụ: điểm ấn đau giữa vùng đại trường và tiểu trường trong bệnh viêm ruột thừa cấp, điểm ấn đau ở vùng dạ dày trong cơn đau dạ dày cấp, điểm ấn đau có điện trở thấp tại vùng gan, thận trong một số trường hợp huyết áp cao.
Nói chung, sự thay đổi ở loa tai đến nay mới giúp vào chẩn đoán vị trí bệnh. Trong công trình gần đây của mình, Nôgiê có giới thiệu một phương hướng tìm tòi thông qua sự đáp ứng của các điểm phản ứng bệnh lý trên loa tai đối với kích thích nóng lạnh để xác định trạng thái hàn nhiệt và hư thực của bệnh. Nhưng phải biết đánh giá và chọn dùng những điểm phản ứng tiêu biểu. Thông thường các thầy thuốc kết hợp những dấu hiệu bệnh lý xuất hiện trên loa tai, các dấu hiệu trên các đường kinh, hoặc các biểu hiện về mạch chứng khác để chẩn đoán toàn diện và chính xác.
Cách châm kim ở loa tai:
Loa tai chủ yếu là trên da dưới sụn, một vài chỗ có vài cơ dẹt mỏng, vì vậy châm ở loa tai khác với châm ở thân thể:
Có thể châm theo hai hướng: châm thẳng góc với da sâu 0,1 - 0,2 cm, không châm xuyên qua sụn hoặc châm chếch 30 - 400 .
Khi cần có thể châm luồn dưới da xuyê n vùng này qua vùng khác.
Vô trùng kim và sát trùng vị trí châm: châm ở loa tai cũng như ở thân thể đều phải lưu ý đến vô trùng kim hoặc dụng cụ khác, sát trùng tay người thầy thuốc trước khi châm và nơi định châm.
Cảm giác "đắc khí" đạt được khi châm: khi châm huyệt a thị ở loa tai, bệnh nhân thường có cảm giác đau buốt, nóng bừng và đỏ ửng trên tai châm (châm tả) thường là khi cảm giác này càng rõ rệt thì tác dụng cắt cơn bệnh cấp, cơn đau, cơn hen càng rõ rệt, khi châm những vùng đại biểu không có điểm ấn đau bệnh nhân thường có cảm giác căng tức (bình bổ, bình tả).
Trường hợp này châm phát huy tác dụng điều chỉnh là chính.
Cài kim: muốn kéo dài tác dụng của mũi châm, người ta dùng hoàn châm hay còn gọi là nhĩ hoàn (thân kim thẳng độ 3mm, đốc kim cuộn vòng) để châm và lưu lại tại nơi mình muốn lưu.
Kỹ thuật lưu kim: tuỳ theo mục đích chữa bệnh:
Khi dùng để cắt cơn đau, cơn bệnh cấp thì lúc hết đau hoặc cơn bệnh đã giảm nhiều hoặc hết có thể rút kim. Nếu muốn duy trì tác dụng có thể lưu kim từ 24 - 48h đến cả tuần lễ, trong thời gian này nếu cơn bệnh, hoặc đau lại xuất hiện; người bệnh tự day vào kim để khống chế cơn bệnh. Cần lưu ý phải giữ sao cho nơi châm kim không bị viêm nhiễm.
Chỉ nên lưu kim ở các vị trí có tính chất tiêu biểu cho trạng thái bệnh lý, không nên để nhiều kim làm cho bệnh nhân khó chịu.
Cứu trên loa tai: thường ít khi cứu vì khó và cũng không bức thiết, khi cần thì dùng ôn châm, hơ hương hoặc điếu ngải vào đốc kim, nhiệt sẽ theo đốc kim truyền vào nơi định cứu
Bổ, tả: trong châm ở loa tai, vấn đề bổ tả được quan niệm và thực hiện đơn giản hơn trong châm kim thường (hào châm).
Khi dùng châm ở loa tai để chống đau, nhất là đau cấp, người ta hay kích thích mạnh (châm tả) với ý định thông qua kích thích cường độ lớn để khống chế ổ hưng phấn bệnh lý.
Nếu chỉ muốn điều chỉnh mất cân bằng của tạng, phủ thôi thì dùng thủ thuật bình bổ, bình tả. Sau khi châm kim vào vùng định châm, xoay và lay nhẹ mấy giây cho bệnh nhân có cảm giác căng, tức, nặng là đủ. Muốn đạt tác dụng điều bổ, dùng thủ pháp ôn châm.
Liệu trình: theo kinh nghiệm của nhiều tác giả, nên ước định mỗi liệu trình khoảng 10 lần châm. Nếu thấy bệnh tiến triển tốt, có thể thêm một liệu trình nữa; giữa hai liệu trình nên nghỉ vài ba hôm.
Trong chữa bệnh cấp tính không cần thiết phải kéo dài, nếu chỉ định đúng châm một đôi lần là đã có hiệu quả; khi kết quả không rõ nên kết hợp hoặc thay phương pháp khác.
Khi cần điều trị dự phòng nên 7 ngày hoặc 10 ngày một lần (như trong hen suyễn chẳng hạn).
CHỈ ĐỊNH VÀ CHỐNG CHỈ ĐỊNH CỦA PHƯƠNG PHÁP CHÂM Ở LOA TAI
Chỉ định:
Tác dụng chống đau được xếp hàng đầu, do đó chỉ định thông dụng là: chống đau, giảm đau cấp khi bệnh đã được xác định. Cũng dùng để ngăn cơn đau tái phát.
Châm ở loa tai còn dùng để điều chỉnh những rối loạn chức năng của cơ thể. Tùy trạng thái cơ thể lúc châm mà tác dụng này hoặc tác dụng kia trở thành nổi bật. Gần đây còn dùng châm ở loa tai để gây tê để mổ cả các ca mổ nhỏ, vừa và lớn.
Có thể dùng để kết hợp với châm ở thân thể, đầu, mặt hoặc với các phương pháp khác để điều trị, phòng bệnh, châm tê.
Chống chỉ định:
Trong các cơn đau bụng cấp ngoại khoa khi chưa xác định chẩn đoán không nên dùng châm ở loa tai để chống đau, vì có thể làm mờ triệu chứng ảnh hưởng đến chẩn đoán.
MỘT SỐ CÔNG THỨC ĐIỀU TRỊ CHÂM Ở LOA TAI ĐỂ CHỮA NHIỀU BỆNH, CÓ THỂ DÙNG CHO CÁC KHOA: NỘI NGOẠI, SẢN PHỤ, NHI, LÂY, THẦN KINH…
Bệnh ở bộ phận x không có hoặc có nhiều điểm phản ứng bệnh lý ở nhiều vùng trên loa tai: vận dụng lý luận để xử lý.
Ví dụ:
Đái dầm: châm vùng bàng quang, thận.
Cảm sốt: (khi còn ở kinh thái dương) châm vùng bàng quang, phổi.
Cơn đau dạ dày: châm vùng gan, dạ dày.
Tắc tia sữa: châm vùng vú, nội tiết.
Thấp tim:
Huyệt chính: tim, nội tiết, giao cảm, thần môn.
Huyệt phụ: dưới vỏ não, tiểu trường.
Loạn nhịp tim:
Huyệt chính: giao cảm, tim, thần môn.
Huyệt phụ: dưới vỏ não.
Huyết áp tăng:
Huyệt chính: điểm hạ áp, giao cảm, thần môn, tim.
Huyệt phụ: rãnh hạ áp (xuất huyết).
Huyết áp hạ:
Huyệt chính: giao cảm, tim, tuyến thượng thận.
Vẹo cổ:
Huyệt chính: khớp vai, vai, thần môn.
Viêm quanh khớp vai:
Huyệt chính: khớp vai, vai, thần môn.
Huyệt phụ: xương đòn, tuyến thượng thận.
Liệt mặt:
Huyệt chính: má, chẩm, mắt 1 và 2.
Huyệt phụ: hàm trên, hàm dưới.
Di chứng viêm não:
Huyệt chính: não, chẩm, thần môn, tim.
Huyệt phụ: dạ dày, dưới vỏ não.
Nhức 1/2 đầu:
Huyệt chính: chẩm, trán, thần môn, dưới vỏ não.
Suy nhược thần kinh:
Huyệt chính: tim, thận, thần môn, chẩm, dạ dày.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh