1. Mô tả
2. Phân bố sinh thái
Chi Cynometra L. ở Việt Nam đã biết có 3 loài, đều là cây gỗ nhỏ hoặc gỗ trung bình. Loài lá lụa (C.ramiflora L.) kể trên đã ghi nhận được phân bố ở Nghệ An (Mường Xén), Kon Tum (Sa Thày), Gia Lai (An Khê), Tây Ninh, Côn Đảo và ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh. Trên thế giới, loài này có ở Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Philippin, Indonesia và Australia.
Lá lụa là cây gỗ ưa sáng, ưa ẩm, có thể chịu được ngập úng theo mùa (kể cả nước mặn). Vì thế, thường thấy cây mọc ở bờ suối, bờ kênh rạch hoặc ở nơi đất trũng trong thung lũng. Chưa thấy cây mọc ở rừng kín thường xanh. Độ cao phân bố có thể tới hơn 600m. Cây ra hoa quả hàng năm, quả già có thể tồn tại đến tận đầu mùa hoa năm sau. Tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt hoặc khi cây còn nhỏ nếu bị chặt có thể tái sinh cấy chồi. Cây lá lụa có thể trồng ở ven ao hồ làm cảnh, gỗ làm nhà cửa hoặc sử dụng trong xây dựng. Lá non ăn được.
Bộ phận dùng:
Lá, rễ và dầu hạt.
3. Thành phần hóa học
4. Công dụng
Ở Việt Nam, nhân dân chỉ dùng lá và dầu hạt cây lá lụa để chữa ghẻ và các bệnh lở loét ngoài da. Lá non có vị chua được dùng làm rau để ăn sống, thường ăn với lẩu mắm.
Ở Ấn Độ, lá và dầu hạt được dùng chữa bệnh phong hủi (dùng ngoài da), trị ghẻ, lở loét, ngứa ngoài da. Rễ cây lá lụa được dùng làm thuốc nhuận trang và tẩy (Nadkarni, 1999: 426).
Bài thuốc có cây lá lụa
Chữa hủi, ghẻ, bệnh ngoài da:
Lấy lá của cây lá lụa, phơi khô, tán nhỏ, nấu với sữa bò đến thể chất sền sệt, trộn với mật ong, bôi lên các chỗ ghẻ hoặc các chỗ lở loét do bệnh phong và các bệnh ngoài da khác.
Dầu hạt cũng được dùng để bôi như trên.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh