1. Mô tả
Trong thực tế, còn có một loài khác có tên khoa học là Paederia scandens (Lour.) Meu. cùng họ, cũng được dùng với công dụng tương tự. Loài này chỉ khác ở chỗ có quả hình cầu, lá có màu tím đỏ ở mặt sau (mơ tam thể).
2. Phân bố, sinh thái
Chi Paederia L. có 26 loài, đều là dây leo; phân bố chủ yếu ở vùng cận nhiệt đới, nhiệt đới châu Á và Nam Mỹ. Ở Việt Nam, có 5 loài, mơ lông là loài phổ biến nhất. Cây có nguồn gốc từ vùng Ấn Độ, Malaysia; hiện nay phân bố rộng rãi ở nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á và Nam Trung Quốc.
Ở Việt Nam, mơ lông có thể gặp hầu hết các tỉnh (trừ vùng núi cao lạnh, trên 1600m) trong quần thể trồng; đôi khi cũng gặp ở trạng thái hoang dại hoá, gần nơi có người ở hoặc bờ nương rẫy.
3. Bộ phận dùng
4. Thành phần hóa học chính
Lá chứa protein 44,6% (tính theo trọng lượng khô) gồm các acid amin như argenin, histidine, lysin, tyrosin, tryptophan, phenylalnin, valin.
5. Tác dụng dược lý
6. Tính vị công năng
Mơ lông có vị hơi đắng, hơi mặn,mùi hôi, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, làm săn.
7. Công dụng
Lá mơ lông được dùng chữa lỵ trực khuẩn. Lấy lá mơ lông (30 -50 g) lau sạch, thái nhỏ trộn với trứng gà (1 quả). Có người chỉ dùng lòng đỏ trứng, nhưng kinh nghiệm dùng cả lòng trắng phổ biến hơn. Bọc thuốc vào lá chuối đem nướng hoặc đặt lên chảo mà rán (không có mỡ) cho thơm. Ngày ăn 2 – 3 lần, trong 5 – 8 ngày. Thời gian điều trị trung bình 7 ngày. Ngoài ra, lá mơ lông còn chữa chứng sôi bụng ăn không tiêu, viêm dạ dày, viêm ruột. Ngày dùng 20 – 40g dạng thuốc sắc.
Để chữa giun kim và giun đũa, lấy lá mơ tam thể (30 – 50g), giã nhỏ, thêm ít muối, ăn sống hay vắt lấy nước uống. Dùng liền 3 buổi sáng vào lúc đói, giun sẽ ra. Chữa giun kim, còn có cách lấy lá mơ lông (30g), cho vào 50ml nước chín, giã vắt lấy nước cốt bơm thụt vào hậu môn, giữ lại khoảng 20 phút, vào 7-8 giờ tối trước khi đi ngủ, giun sẽ ra.
Theo tài liệu nước ngoài, lá mơ lông có tác dụng bổ và làm săn. Nhân dân một số vùng ở Ấn Độ dùng lá tươi nấu canh và cho vào thức ăn khác cho người ốm và ở thời kỳ dưỡng bệnh, đặc biệt đối với người bị bệnh đường ruột. Toàn bộ cây được dùng để chữa thấp khớp. Dùng lá mơ lông đắp vào bụng để chữa chướng bụng đầy hơi, và chữa ecpét. Ở Philippin, lá mơ lông nấu lên và giã nát được đắp vào bụng để điều trị bí tiểu tiện. Nước sắc lá được coi là có tác dụng lợi tiểu và làm tan sỏi bàng quang. Rễ và vỏ cây để gây nôn và quả được các bộ tộc miền núi dùng để nhuộm răng đen phòng sâu răng. Dịch ép rễ điều trị trĩ, viêm lách, đau ngực và đau gan.
Mơ lông có thể có tác dụng tăng thải trừ chất độc tích luỹ trong cơ thể khi dùng các chất có hại như rượu, thuốc lá, hoặc do rối loạn chuyển hoá.
8. Bài thuốc có mơ lông
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh