✴️ Vị thuốc Nhục đậu khấu

1. Mô tả

Cây nhỡ hoặc cây to, cành non hình tròn, vỏ ngoài nhăn nheo, hơi có khía, màu nâu xám. Lá mọc so le, có cuống ngắn, hình bầu dục hoặc hình mác, dài 5 – 15cm, rộng 3 – 7cm, gốc tròn, đầu nhọn, mặt trên nhẵn, mặt dưới phủ lông tơ, dày hơn ở lá non và có gân nổi rất rõ.

Cụm hoa đực dài 1 – 3 cm, mọc ở kẽ lá gồm 3-20 hoa; lá bắc rất nhỏ, bao hoa hình trứng, có lông, chia 3 thùy (đôi khi 4); nhị xếp thành cột có đế dày, nhẵn, bao phấn thuôn; cụm hoa cái mọc ở kẽ lá gồm 1-2 hoa, lá bắc rõ, bao hoa hình trứng rộng, có lông ở mặt ngoài, chia 3 thùy ở đầu, bầu có lông mịn, 1 ô.

Quả thường đơn độc, có cuống ngắn, đôi khi mang bao hoa tồn tại; hạt hình trứng có áo và nhân màu trắng.

Mùa hoa quả: tháng 4 – 8.

2. Phân bố, sinh thái

Nhục đậu khấu có nguồn gốc ở vùng đảo Molucca ở Thái Bình Dương, được nhập trồng vào đất liền ở khắp vùng nhiệt đới Nam Á và Đông – Nam Á. Ở Việt Nam cây chủ yếu được trồng ở các tỉnh phía nam.

Nhục đậu khấu là cây nhiệt đới, thích nghi cao với điều kiện khí hậu nóng và ẩm, lượng mưa hàng năm tư 1500 – 3000mm. Cây sinh trưởng tốt ở vùng thấp, không thích hợp với vùng núi trên 750m, rụng lá mua khô, thụ phấn nhờ gió hoặc côn trùng. Khi quả chín lấy hạt tươi gieo ngay, đạt tỷ lệ nảy mầm từ 92 – 98%. Sau 2 tháng tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 7%. Cây con ở vườn ươm sau một năm mới đem trồng. Ở bang Madras (Ấn Độ) người ta trồng nhục đậu khấu lẫn trong vườn dứa hay xen với cây trám (canarium spp.), sau 6-7 năm bắt đầu có hoa quả. Trong gieo trồng ngẫu nhiên từ hạt, bao giờ số cây mang hoa đực cũng nhiều gấp bội cây hoa cái. Nhục đậu khấu cho thời gian thu hoạch kéo dài đến 70 – 80 năm (The Wealth of India, vol. VI: 473 – 475. 1962).

3. Bộ phận dùng

Nhân hạt và áo hạt phơi khô. Mỗi năm thu hái quả hai lần vào các tháng 5 – 6 và 11 – 12. Sau khi hái quả, bóc bỏ vỏ, lấy riêng áo hạt ngâm nước rồi phơi sấy cho khô được nhục quả y. Hạt đem sấy ở nhiệt độ 80°C đến khi lắc có tiếng lọc cọc thì đem đập lấy nhân.

Nhục đậu khấu được chế biến như sau:

  • Nhục đậu khấu nướng: Lấy áo hạt, tẩm ướt, rồi bọc bột mì cám gạo hoặc bột hoạt thạch, đem nướng đến khi vỏ bọc cháy hết (có thể đem sao cát nóng).
  • Nhục đậu khấu sương: Lấy nhân hạt sao nóng, ép bỏ dầu, lấy hạt tán bột, gói vào giấy bản rồi ép bỏ dầu.

4. Thành phần hóa học

Hạt nhục đậu khấu chứa 14,3% nước, 7,5% protein, 36,4% phần tan trong ether, 28,5% hydrat carbon, 11,6% sợi, 1,7% chất vô cơ, 0,12mg/100 calci, 0,24mg/100 phoshor và 4,6mg/100 sắt, 6 – 16% tinh dầu, 14,6 – 24,2% tinh bột, 2,25% pentosan, 1,5% furfural, 0,5 – 0,6% pectin.

Phẩm chất và tác dụng chữa bệnh của nhục đậu khấu là do tinh dầu. Dược điển Ấn Độ quy định hạt nhục đậu khấu dùng làm thuốc phải chứa không dưới 5% tinh dầu và không quá 3% tro. Tinh dầu trong hạt nhục đậu khấu thay đổi từ 6 – 16% tùy theo nguồn gốc của cây. Đó là một chất lỏng sánh, không màu hoặc màu vàng nhạt, có thành phần chính là d. pinen và d. camphen với tỷ lệ 80%. Các thành phần khác là p. pinen, dipenten, p. cymen, d. linalool, terpinen 4. ol, dl. a terpineol, geraniol, safrol eugenol, isoeugenol, một chất aldehyd có mùi citral, myristicin (3 methoxy. 4,5 dimethylen dioxy – 1- allyl benzen); acid myristic và ester của acid myristic và một số chất béo khác. Myristicin là chất dộc, dùng liều cao gây thoái hóa mỡ ở gan.

Bơ nhục đậu khấu chứa 38 – 43%, chất chiết được bằng ether gồm các glycerid, tinh dầu (6 – 13%) một lượng nhỏ chất nhựa và phần không xà phòng hóa. Bơ nhục đậu khấu là một chất rắn mềm, màu vàng hoặc vàng đỏ, chảy 38-51 %, phẩm chất của bơ tùy thuộc vào phương pháp chế tạo thường có tỷ trọng 0 945 – 0,960; nD40 1,4662 – 1,4704; chỉ số iod 33 – 65; chỉ số acid 10 – 25, chỉ số xà phòng 154 – 190, phần không xà phòng hóa (có chứa mvristicin) 8 – 18%, các thành phần aciđ béo (trong nhục dậu khấu ở Ấn Độ) gồm acid lauric 0,4%, myristic 71,8%, palmitic 14,3%, stearic 1,2%, hexadecenoic 4,890, oleic 5,2%, linoleic 1,5%.

Các thành phần glycerid là (mol %): loại no toàn bộ (trimyristin 41,7, (iimyristopalmitin 29,6); loại nửa no nửa chưa no: (disaturated monounsaturateđ 8,2). (The Wealth of India, vol VI, 1962, 476).

Hạt nhục đậu khấu còn chứa các thành phần lignan và neolignan. Miyazawa, Mítsuo, Kasahara Hiroyuki đã phân lập từ hạt một chất lignan mới là (+) – myrisfransin (CA. 125, 1996, 163322g). Kasahara Hiroyuki, Miyazawa Mitsuko đã tách và xác định cấu hình của một neolignan từ hạt nhục đậu khấu là (+) – erythro (7S. 8R) – A8 – 4,7 dihyđroxy – 3.3′ – 5′ trimethoxy -8-0-4′ neolignan và (-) – erythro (7R – 8S) – A8′ – 4 – 7 (lihydroxy – 3, 3′. 5′ trimethoxy -8-0-4′ ncolignan (CA. 124, 1996, 25400n).

Kim Yang – Bae, Park il Yeong đã xác định cấu trúc tinh thể của chất licarin – B từ hạt nhục đậu khấu là một phenylpropanoid dimeric thuộc nhóm neolignan (CA. 115, 1991, 131990p).

Shin – Kuk. Hyum, Kim OK Nam đã phân tích dịch chiết hexan từ hạt nhục đậu khấu bằng sắc ký phân đoạn trên cột SiO2 đã tách được 3 chất có hoại tính sinh học là myristicin, licarin B và đehvdro isoeugenol. Các chất này có tác dụng làm dịu thần kinh trung ương (CA. 110, 1989, 127952g).

Shin – Kuk. Hyum, Woo Won Sik phát hiện các hợp chất phenylpropanoid tìr hạt nhục đậu khấu như myristicin, lycarin B, dehydrodiisoeugenol, và 2 – (4 – allyl – 2 – 6 – dimethoxyphenyl) 1-4 hydroxy 3 – methoxy phenylpropanol – 1 – ol – oic. Các chất này có tác dụng không chỉ kéo dài giấc ngủ gây nên bởi hexobarbital mà còn làm giảm hoạt động của aminopyrin trong gan. (CA. 113, 1990, 91283k).

Nakajirna, Ichiro đã chiết và xác định công thức hoạt chất chống u từ nhục đậu khấu:

Cho chuột mang tế bào ung thư sarcoma 180 dùng chất này, đã kéo dài thời gian sống từ 19 ngày ở nhóm đối chứng lên 32 ngày (CA. 112, 1990, 11779f).

Chất myristicin có trong tinh dầu hạt nhục đậu khấu là một chất độc, nếu đem rang hạt ở 150 – 180° trong vòng 10-15 phút, hàm lượng myristicin sẽ giảm từ 19,2 -45%. (Li! Ticlin, Zhou Jic. CA. 113, 1990, 229887u). Trong áo hạt, Hattori Masao, Hada Sumitra đã tách được nhiều hợp chất THF lignan đặt tên là fragranosin A2, Bi, IỈ2, Q, c2, c3a và c3b cùng với các chất neclandrin B và vernucosin. (CA. 108, 1988, 73949Z).

Hada, Sumitra; Hattori Masao đã phân lập được các chất thuộc nhóm neolignan từ áo hạt nhục đậu khấu là erythro – 2 – (4″ allyl 2″ 6″ di. methoxyphenoxy) – 1 – (3′, 4’, 5’) trimethoxy phenyl propan – 1, 3 diol; threo – 2 – (4″ allyl 2″ – methory phenoxy) – 1 – (4’ hydroxy – 3′ – methoxyphenyl) propan – 1 – ol; threo – 1 – (4′ hydroxy – 3′ – methoxy phenyl) – 2 – (2″ methoxy 4″ – (1″‘ – (E) – propenyl) phenoxy propan – 1 – ol.và dạng erythro của nó; threo – 1 – (4′ hydroxy – 3’ methoxy phenyl – 1- methoxy – 2 – (2″ – methoxy – 4″ – (1″‘ (E) propenyl) phenoxy propan và dạng erythro của nó; fragransol A, fragransol B, fragransin Dj fragransin D2, fragransin D3, fragransin Fj và austro bailignan 7 (CA 108, 1988, 201701b).

Hatlori Masao; Yang Xiu Wei lần đầu tiên đã tách được từ áo hạt nhục đậu khấu các hợp chất như: 3 – (3, 4, 5 trimethoxy phenyl) 2 – (E) propen – 1 ol, 3 – (3 methoxy 4, 5 methylen dioxy phenyl) – 2 – (E’) propen – 1 – ol; 2,3 dihydro – 7 – methoxy – 2 (3 – 4 dimethoxy phenyl) – 3 methyl – 5 – (1 – (E) propenyl) benzo furan; fragransol C; fragransol D, 2 – 3 dimethyl – 1,4 – bis – (-3, 4 – methylen dioxyphenyl) – butan – 1 oj. myristicanol A, và myristicanol B. (CA 109 1988 107663q).

Zacchino, Susana A, Badano, Hector cũng đã tách từ áo hạt một chất erythro (3, 4, 5 – triinethoxy – 7 hydroxy – 1″ – allyl – 2′ – 6′ dimethoxy) -8-0-4 neolignan có cấu trúc như sau:

Sadao, Tetsuya, Shimizu, Tosnokazu đã phát hiện các hợp chất có cấu trúc diarylnonanoid có trong nhục đậu khấu có tác dụng kích thích tạo collagen và làm lành vết thương.

Lá nhục đậu khấu chứa 0,4 – 0,62% tinh dầu màu nâu nhạt, tỷ trọng 0,8642, n = 1,474 chỉ số ester 8,4 có vị cay.

Cất từ lá khô được 1,56% tinh dầu, tỷ trọng 0 87772, aD27 3,5; n26 1,4742 chứa a. pinen (80%) và myristicin 10%.

Vỏ cây chứa 0,14% tinh dầu, tỷ trọng 0,871, D 12 1 chỉ số xà phòng 14 chỉ số ester sau khi acetyl hóa 37,5.

5. Tác dụng dược lý

  1. Tác dụng ức chế enzym chuyển hóa thuốc ở gan: Chiết nhục đậu khấu bằng n – hexan, sau đó phân lập có hệ thống được nhiều chất, trong đó có 3 chất được coi như hoạt chất là myñsticin (I), Iicarin (II) và dehydro isoeugenol (III).
    – Chất II và III được dùng liều duy nhất 200mg/kg, tiêm phúc mạc cho chuột nhắt trắng có tác dụng kéo dài thời gian ngủ do Kfexobarbital và kéo dài thời gian hạ sốt của aminopyrin (pyramidon). Nghiên cứu cơ chế tác dụng đã thấy, sở dĩ thuốc kéo dài thời gian ngủ của hexobarbital (H) vì chúng ức chế hoạt tính của enzym hydroxylase của H có ở gan (là enzyxn chuyển hóa, làm biến đổi phân tử thuốc H) do đó hexobarbital tồn tại trong cơ thể lâu hơn, làm tăng thời gian ngủ. Cũng như vậy, do thuốc ức chế enzym N-demethylase có ở gan (là enzym có tác dụng khủ nhóm methyl của aminopyrin làm mất hoạt tính của aminopyrin) nên làm kéo dài thời gian hạ sốt của aminopyrin.- Chất I và II còn làm cho chuột nhắt trắng ngủ ở liều hexobarbital thấp mà bình thưòng không gây ngủ. Như vậy thuốc có tác dụng ức chế thần kinh trung ương.
  2. Tác dụng kích thích rồi ức chế: Nhục đậu khấu dùng liều thấp thì xúc tiến bài tiết dịch vị, giúp tiêu hóa tốt, kích thích nhu động ruột, gây ăn ngon. Liều cao, sau một thời gian kích thích ngắn, có hiện tượng mệt mỏi, buồn nôn, đau đầu, trì độn, buồn ngủ (có trạng thái tê mê).
  3. Thử lâm sàng chữa tiêu chày: 25 trẻ em bị tiêu chảy, không đặc hiệu được điều trị bằng bài thuốc gồm các vị nhục đậu khấu, quả của cây Cuminum cyminum L., nụ đinh hương và borax, lượng bằng nhau. Liều dùng 100mg/kg/ngày. Sau 7 ngày 80% khỏi, những trẻ còn lại, khỏi vào tuần thứ hai (Ấn Độ).
  4. Thử lâm sàng chữa sỏi thận (Ấn Độ): Bài thuốc làm thành viên nang 500mg, trong đó nhục dậu khấu 100mg, dây thần thông 100mg, nhọ nổi 100mg, thân rễ cây Bergenia ligulata 100mg, dây tóc tiên 50mg và cây Withania somnífera Dunal để chữa sỏi thận. Mỗi ngày uống một viên nang, sỏi tan trong vòng 15 ngày, không thấy có tác dụng phụ. Một thử nghiệm lâm sàng thác (cũng ở Ấn Độ) dùng bài thuốc trên có thêm quả của cây gai chống điều trị cho 30 bệnh nhân sỏi thận loại sỏi CaCO3 và Ca oxalat thấy các triệu chứng do sỏi giảm dần. sỏi tan trong vòng 15-30 ngày.

6. Tính vị, công năng

Nhục đậu khấu có vị cay, đắng, hơi chát, mùi thơm, tính ấm, có độc, vào 3 kinh tì, vị và đại tràng, có tác dụng ôn tì, thu sáp, chỉ nôn, chỉ tả, lỵ, tiêu thực.

7. Công dụng

  • Nhục đậu khấu được dùng trong y học cổ truyền và y học hiện đại, để chữa các bệnh đường tiêu hóa như kiết lỵ, tiêu chảy mất trương lực, đau bụng, đầy hơi, tiêu hóa kém, buồn nôn, nôn, suy mòn. Ở Ấn Độ, nhục đậu khấu còn được dùng để kích dục, gây sẩy thai. Dạng dùng thông thường là thuốc bột hoặc thuốc viên, ngày uống 0,25 – 0,50g, có thể đến 2g nếu bị tiêu chảy nặng. Dùng liều cao dễ bị ngộ độc, gây say.
  • Nhục dậu khấu và bơ nhục đậu khấu được dùng xoa bóp ngoài chữa tê thấp mạn tính, đau người, đau dây thần kinh tọa.
  • Áo hạt là thuốc bổ máu với liều dùng gấp dôi. Gỗ có tác dụng hạ sốt, bổ phổi và gan.
  • Dầu bay hơi chiết từ nhục đậu khấu có trong thành phần của nhiều chế phẩm ghi trong được điển cùa nhiều nước như rượu thơm amoniac (Spiritus ammoniae aromaticus), rượu valerian amoniac (Tinctura valerianae ammoniata). Dầu này nhỏ vào miếng đường rồi uống có tác dụng kích thích và lợi trung tiện.
  • Dầu nặng của nhục đậu khấu được dùng để tẩy giun, chế thuốc mỡ kích thích tóc mọc, thuốc uống nhuận tràng. Liều dùng của dầu là 1 – 3 giọt một lần.

8. Bài thuốc có nhục đậu khấu

  1. Chữa kém ăn, ăn không tiêu: Nhục dậu khấu 0,50g, nhục quế 0,50g, đinh hương 0,20g. Tất cả tán thành bột, trộn đều với lactose, chia làm 3 gói, ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 gói.
  2. Chữa tỳ vị hư hàn, đau bụng, đầy hơi, nôn mửa, tiêu chảy kéo dài: Nhục đậu khấu nướng qua 0,5g, nhục quế 0,5g, mài với nước hay rượu uống. Ngày 2-3 lần. Có thể dùng dạng thuốc bột gồm nhục đậu khấu 80g, quế 100g, đinh hương 40g, sa nhân 30g. Mỗi vị tán thành bột, trộn tất cả với 250g calci carbonat và 500g đường. Ngày uống 1 – 4g. Hoặc dùng bài thuốc gồm nhục đậu khấu 40g, vỏ lựu 40g. Lấy cám gạo làm thành bánh, bao bọc nhục đậu khấu ở giữa, rồi đem nướng đến khi cám cháy xém. Lấy hạt nhục đậu khấu gói vào giấy bản, đập cho dầu chảy ra thấm vào giấy bản. vỏ quả lựu thái nhỏ sao vàng. Hai thứ tán nhỏ, rây thành bột mịn, luyện với hồ làm viên bằng hạt đỗ đen. Ngày uống 3 lần vào lúc đói, mỗi lần 0,5 – l,0g với nước ấm hoặc cháo loãng.
  3. Thuốc giảm đau và chữa kiết lỵ, tiêu chảy cấp và mạn tính (Ân Độ): Nhục đậu khấu, quả chà là và nhựa thuốc phiện lượng bằng nhau, trộn với dịch ép của lá trầu không làm thành viên tròn, nặng 0,33g. Mỗi lần uống 1 viên, ngày 3 lần.
  4. Chữa hen, đau bụng, đau dây thần kinh, rong kinh, đau kinh, ho do co thắt, đau lưng (Ân Độ): Bột kép chế từ nhục đậu khấu, ngọn cây gai mèo, long não, bạch đậu khấu, đinh hương, bạch hòa xà lượng bằng nhau. Liều dùng mỗi lần 0,75 – 1 50g ngày 2 lần, uống với mật ong.

Chú ý:

  • Dùng liều cao (có khi chỉ 1 hạt) sẽ gây ngô độc và có thể chết người. Triệu chứng ngộ độc là giãn đồng tử như khi ngộ độc belladon, tiểu tiện ra máu Những người nhiệt tả, nhiệt lỵ và bệnh mới phát không dùng nhục đậu khấu.
  • Hai bài thuốc Ấn Độ nói trên có thuốc phiện và gai mèo là những vị thuốc độc dễ gây nghiện, dùng phải thận trọng.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top