Ta biết hoạt động tâm lý (trí nhớ, ngôn ngữ, tri giác, thực vận…) là thể hiện sự hoạt động của các chức năng cao cấp ở vỏ não.
Cơ sở của hoạt động này là dựa trên đặc điểm giải phẫu – chức năng của vỏ não.
Mặt dưới vỏ não
Đó là cơ sở thứ nhất để nghiên cứu chức năng của vỏ não: từ loài cá, xuất hiện “phác thảo” của não – cùng hoá để thích ứng với đời sống… Tới loài chim bay lượn cần có thị giác tinh vi nên bắt đầu có tổ chức vỏ não mới. Từ loài ăn thịt, não phát triển, có thêm các khe rãnh não tạo thành các hồi não.
“Hồi não hoá” làm tăng diện tích vỏ não lên gấp hai, ba lần.
Ở loài người, diện tích mặt phẳng của vỏ não chỉ có 75.000 mm2, nhờ các rãnh, diện tích tăng toàn bộ là 220.000 mm2 (chừng 145.00 mm2 là diện tích ẩn ở các rãnh).
Ở loài người, chỉ có 20% là diện phóng chiếu, còn 80% là diện liên hợp và đó là trung tâm các biểu hiện hoạt động thần kinh cao cấp
Ngay từ tháng thứ 5 của phôi, não bắt đầu có thùy, có hồi.
Tháng thứ 7 xuất hiện các lớp 5, lớp 6 của vỏ não và tháng thứ 8 xuất hiện các lớp khác.
Khi sinh ra, não chưa có myelin hoá, hoạt động của trẻ chưa hoàn hảo, mới chỉ là một “vật đẻ non chưa biết đứng, biết đi mới chỉ là sinh vật thể nhạt”.
Tháng đầu tiên của trẻ, các diện phóng chiếu bắt đầu có myelin, còn các diện liên hợp thì bắt đầu có myelin vào tháng thứ 5 và kéo dài tới năm thứ ba (trẻ 3 tuổi).
Vùng góc cầu tiểu não
Thực nghiệm là phương pháp nghiên cứu phong phú nhất và chắc chắn nhất. Qua nhiều phương pháp thực nghiệm ở các loài theo bậc thang tiến hoá, người ta xác định được rõ hơn chức năng vỏ não.
Qua thực nghiệm “gọt vỏ não”, cho thấy sinh vật càng phát triển thì rối loạn càng rõ rệt, đời sống sinh vật càng ngắn ngủi với 2 biểu hiện lớn: mất tiếp thu, mất nhận thức đồ vật và thờ ơ với hoàn cảnh, mất tất cả phản xạ có điều kiện (chỉ tỉnh dậy ăn uống và phải đưa thức ăn tận miệng, vật không thể tự kiếm mồi được).
Hoạt động của các chức năng cao cấp của vỏ não là của toàn bộ não – nhất là vỏ não, vùng dưới vỏ, hoạt động này có liên quan mật thiết với các chất dẫn truyền thần kinh thông qua sự tưới máu của toàn não.
Chức năng tâm lý của vỏ não là các mặt hoạt động của tâm lý tâm thần.
Hoạt động tâm lý dựa trên 3 quá trình cơ bản: nhận thức hoạt động, tình cảm và hành động.
Bắt đầu từ cảm giác, kết quả của những hiện tượng bên ngoài được phản ánh vào não. Từ cảm giác tổng hợp thành tri giác, không những phản ánh khía cạnh tính chất sự vật mà cả toàn bộ sự vật. Tri giác được lưu lại, bảo tồn ở não, tích lũy thành những nhận thức, và khả năng con người giữ lại tri giác, cảm giác biểu lộ ra nhận thức, hiểu biết gọi là trí nhớ.
Hình thức cao cấp của hoạt động nhận thức là tư duy. Quá trình tư duy cho khả năng tổng hợp, phân tích, so sánh, tập hợp, khái quát, phán đoán, suy luận những hiện tượng phản ánh qua tri giác, nhận thức.
Biểu hiện thái độ của con người đối với hiện tượng, sự vật xung quanh. Cảm xúc có thể vui, buồn, thờ ơ, khoái cảm…
Là thái độ của con người đối với bên ngoài. Có thể biểu lộ bằng động tác có ý thức, bằng tư thế dáng điệu, nét mặt, lời nói….
Ngôn ngữ không chỉ là những từ riêng biệt mà là những câu, những từ ngữ để diễn tả tư duy. Tư duy = ngôn ngữ bên trong = từ ngữ do sự phối hợp của toàn bộ não
Tổn thương thùy trán có mất khả năng nói, còn khả năng hiểu lời nói… tổn thương ở vùng vận động tay (chân diện 4), có mất viết, tổn thương ở vùng khép rãnh Rolando có mất vận ngôn Broca…
Tổn thương thùy thái dương có rối loạn về lý giải, không hiểu lời nói – nói không hiểu. Không nêu được hình ảnh, nói không đúng: tổn thương ở vùng sau hồi khép rãnh Sylvius hồi nếp cong có mù đọc, tổn thương ở hồi thứ nhất thái dương tới hồi khép rãnh Sylvius có mất cảm ngôn Wernicke.
Trung tâm của các hình thái rối loạn ngôn ngữ
Các biểu hiện này bao gồm nhiều loại :
Có thể khám phát hiện qua các tét, ví dụ nghiệm pháp 3 tờ giấy, nghiệm pháp 3 que diêm.
Mất thực vận
Có nhiều loại rối loạn mất nhận thức: mất nhận thức về cảm giác, mất nhận thức về các giác quan và tổn thương ở các khu vực tương ứng ở vỏ não…
Tổn thương hủy hoại gây Mù vỏ não, người bệnh thấy không gian trống rỗng, không sáng không tối.
Mù tâm thần (diện 19) : không phân biệt đối tượng, không nhận ra đối tượng mặc dù vẫn trông thấy (thị lực tốt). Người bệnh phải sờ, nghe mới biết đối tượng.
Không có khái niệm về không gian.
Thiếu hiểu biết về lời nói, về âm nhạc.
Một hình thái rối loạn cảm ngôn
Ở người cao tuổi, từ quãng 60 – 65 tuổi, quá trình thoái hoá myelin phát triển sự lão hoá của hệ thần kinh… sẽ dẫn tới biến đổi các chức năng thần kinh, tâm lý tâm thần – nhất là sự suy giảm nhận thức.
Sự suy giảm nhận thức là tất yếu của quá trình lão hoá. Sự suy giảm này có thể là bình thường, có thể chuyển thành bệnh với nhiều mức độ khác nhau cùng là những tiến triển khác nhau.
Trí nhớ là chỗ dựa của toàn bộ phức hợp vỏ não (Guy Lazorthes, 1984) : hồi hải mã, củ nhũ hình, toàn vỏ não.
Giảm trí nhớ – quên có thể ở khâu ghi nhớ, ở khâu lưu trữ hay ở khâu hồi ức.
Giảm trí nhớ cũng cần được chú ý đánh giá so với tuổi và trình độ học vấn (thấp cao), của người cao tuổi, của người bệnh.
Có thể người đó khó khăn khi ghi nhớ thông tin mới, qua đài phát thanh truyền hình hoặc qua đọc báo.
Những hiện tượng trên được “người bệnh” (người cao tuổi) nhận thấy sau một thời gian dài. Sự khó ghi nhớ này được người bệnh cảm thấy là do khó tập trung chú ý xem qua đài, báo.
Có thể “người bệnh” quên sự việc mới, quên thao tác nghề nghiệp, quên tên người thân. Có người bệnh không tài nào gọi tên người đang đứng trước mặt. Hiện tượng này cũng được người bệnh “cảm thấy” sau một thời gian: có thể ban đầu thỉnh thoảng thấy khó khăn lắm mới nhớ được các từ ngữ hoặc tên quen thuộc.
Có thể người bệnh thấy khó khăn nhớ lại những kỷ niệm quan trọng của bản thân, gia đình và xã hội.
Suy giảm nhận thức nhẹ ở người cao tuổi là có những rối loạn khác như ngôn ngữ, tri giác và thực vận.
Suy giảm nhận thức nhẹ cho ta thấy có nhiều tổn thương (teo não, mạch máu).
Ở nhiều khu vực ở vỏ não nhất là ở vùng trán, vùng thái dương, vùng bên dưới thái dương.
Suy giảm nhận thức nhẹ là nhóm bệnh có thể phát triển thành sa sút trí tuệ do mạch máu, bệnh Alzheimer, hoặc cũng có thể chỉ là quá trình lão hoá não.
Từ “suy giảm nhận thức” phát triển thành sa sút trí tuệ nhanh hay chậm là tùy thuộc vào tác nhân gây bệnh: do tổn thương mạch máu, do teo thùy trán, thùy thái dương.
Người bệnh có hoạt động giảm mất khả năng chú ý, giảm trí nhớ: quên một cách rõ rệt và người thân thấy rất rõ, người bệnh không suy xét, hình tượng được.
Rối loạn về tình cảm, thờ ơ, có thể nói nhiều hay nhắc lại chuyện cũ.
Có thể có mất thực vận, khó hay không biết sử dụng các động tác quen thuộc hàng ngày, ví dụ động tác mặc quần áo…
Có thể có rối loạn ngôn ngữ với nhiều dạng khác nhau tùy theo tổn thương ở vùng trán hay vùng thái dương.
Có thể có rối loạn mất nhận thức thị giác.
Người bệnh ở tình trạng ức chế, bị động không biểu lộ tình cảm, phản ứng, người bệnh giảm hoàn toàn sự suy xét đối xử.
Có những rối loạn về trương lực, về dinh dưỡng, rối loạn cơ tròn.
Người bệnh ở trạng thái lú lẫn, mất định hướng về thời gian và không gian, về quan hệ bản thân và xã hội…. Có ở mức độ khác nhau về thất ngôn (mất ngôn ngữ), thất dụng (mất thực vận), thất tri (mất nhận thức).
Từng thời kỳ có những cơn hoang tưởng, ảo giác, khuynh hướng tấn công, hưng cảm hoặc vô cảm.
Sau cùng người bệnh ở tình trạng sa sút nặng nề đồng thời có những cơn co giật kiểu động kinh.
Ở các trung tâm nghiên cứu, người bệnh được khám qua các nghiệm pháp Thần kinh tâm lý… Thường người bệnh được khám xét qua thử nghiệm Folstein (còn gọi là Đánh giá trí nhớ thử nghiệm trí tuệ)
Có tới 70 loại chứng bệnh có sa sút trí tuệ trong đó bệnh Alzheimer chiếm khoảng 55%, bệnh mạch máu não là 20% và các nguyên nhân khác là 25%. Cần chú ý tới :
Sa sút trong các Bệnh Thoái hoá ở Não, cần chú ý :
Hình 6. Ổ teo não ở mặt ngoài
Hình 7. Ổ tổn thương ở mặt trong
Hình 8. Teo và tổn thương nhồi máu
Xem thêm: Thuốc điều trị sa sút trí tuệ
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh