Quán chúng là một vị thuốc tương đối hay dùng trong đông y. Tuy nhiên nguồn gốc rất phức tạp và chưa thống nhất. Trước đây căn cứ vào các tài liệu của Trung Quốc, ta thường xác định quán chúng là thân rễ của cây Cyrtomium fortunei J.Sm (họ Polypodiaceae). Theo A.Petelot (1954, Les planes medicinales du 319) thì cây này có ở Việt Nam. Tại nhiều vùng nhân dân ta dùng thân rễ của nhiều loài quyết khác nhau tên khoa học chưa được ai xác định chính xác.
Năm 1961 tại Trung Quốc (1961-Trung dược trí I) các tác giả có báo cáo đã điều tra nguồn gốc quán chúng tại nhiều vùng ở Trung Quốc (Đông Bắc, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Phúc Kiến..) nhưng chưa hề thấy ở đâu dùng thân rễ cây Cyrtomium fortunei J. Sm như thường ghi trong nhiều tài liệu trước.
Chúng tôi giới thiệu tóm tắt một số tài liệu về nguồn gốc và công dụng của vị quán chúng để chúng ta tham khảo và nghiên cứu để chỉnh lý lại trên cơ sở thực tế sử dụng ở Việt Nam ta.
Quán là xâu, chuỗi: chúng là nhiều, vì vị quán chúng trông giống như nhiều cành xâu vào gốc cây nên đặt tên như vậy.
Trong sách vở người ta mô tả, quán chúng là một thứ cây mọc ở khe núi, hình giống đuôi chim chả, da đen thịt đỏ.
Như trên đã nói, tên quán chúng dùng để chỉ thân rễ và phần dưới cuống lá phơi hay sấy khô của rất nhiều cây khác nhau thuộc quyết thực vật. Sau đây là một số cây chính:
Cyrtomium fortunei J. Sm (Polystichum fortunei Nakai). Cây có thân rễ mọc đứng, lá non mọc thành túp cuống dài 5-20cm khía sâu có vảy. Phiến lá hình lông chim dài 15-35cm, ổ tử nang phân phối đều từ gân chính đến mép các thùy của lá. Như trên đã nói, mặc dù có ghi trong tài liệu cũ, nhưng cho đến nay chưa ai phát hiện. Tại Trung Quốc, người ta cũng chưa thấy ở đâu dùng vị thuốc này làm quán chúng.
Dryopteris crassirhizoma Nakai (Thô hành lân mao quyết) thuộc họ Aspidiaceae, còn có tên quán chúng (Đông Bắc, Trung Quốc). Cây này mới thấy ở Trung Quốc (Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh).
Athyrium acrostichoides (Sw.) Diels-Quán chúng (Tứ Xuyên) họ Athyriaceae.
Woodwardia unigemmata Nakai họ Ô kim quyết Blechnaceae có tên là đơn nha cẩu tích quản trọng, cây này có mọc ở Sapa (Lào Cai). Cùng giống còn có Đông phương cẩu tích-Woodwardia orientalis Sw. và Woodwardia orientalis Sw. var. prollifera (Hook. et Arn.) Ching. Những loài này thấy và được dùng ở Triết Giang, Phúc Kiến, Đài Loan, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Cạm Túc, Hồ Nam. Tại nước ta, qua các tài liệu cũ có cây mang tên cẩu tích Woodwardia cochinchinensis Ching (co cút, đong un, Lào) nói là có mọc phổ biến ở miền núi nước ta, nhưng cũng chưa phát hiện.
Osmunda japonica Thunb. là cây tử cơ thuộc họ Tử cơ Osmundaceae. Cây này mọc và được dùng ở Hồ Nam, Sơn Đông, An Huy, Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến, Đài Loan, Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tây, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Thiểm Tây.
Qua tài liệu cũ ta có cây quản trọng Osmunda zeylania L (tên khác của Helmithostatchys zeylanca Hook.)
Do nguồn gốc hỗn loạn cho nên thành phần hóa học cần xác minh lại. Theo Dược học tạp chí (Nhật 39; 905, 1920) trong Đông bắc quán chúng có filixin, filmaron C47H56O16, albaspidin C25H38O8. Filixin thủy phân sẽ cho axit filixic C35H40O12 và aspidinola C12H16O4, ngoài ra còn có axit filmaric chất béo.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh