✴️ Stress và mối liên quan các loại bệnh lý

Khái niệm chung

Từ xa xưa người ta đã cho rằng tâm lí có một vai  trò  nhất  định trong sự xuất  hiện và phát triển bệnh. Tuy nhiên  mãi  đến giữa  thế  kỉ  XX, những tư tưởng này  mới được phát triển mạnh mẽ.  Khởi  đầu cho  hướng mới  này  chính là S. Freud.  Ông cho rằng các rối loạn cơ thể chỉ  là  sự  thể  hiện biểu trưng (Symbol)  của  những xung đột nội tâm bị đè  nén,  ức  chế.  Mặc  dù  S.Freud (1910) đã cự tuyệt việc tuyệt đối hoá vai trò ưu thế của tâm lí đối với cơ thể song điều này đã không ngăn cản được nhiều tác giả khác lí giải bệnh cơ thể theo Phân tâm. Họ cho rằng cũng như rối loạn tâm căn, tất cả các  triệu chứng cơ thể  chỉ là phương thức dung  hoà để giải toả năng  lượng  Libido. Các  dạng co giật  của vận động cơ thể chỉ là sự né tránh căng thẳng của tính dục; các  bệnh  đường hô  hấp  là sự thể  hiện quay  trở lại thời kì nằm trong bụng mẹ, khi mà hệ hô hấp chưa hoạt động...

Trên cơ sở lí  thuyết  phân  tâm,  Alexander  (1950) cho  rằng các  yếu tố  tâm  lí và cụ thể là sự xung đột tâm lí đóng vai  trò quan trọng trong 7  bệnh thực  thể: loét  dạ dày – tá tràng; viêm  đại  tràng; ưu năng  giáp; viêm  ruột  non cục  bộ; cao  huyết áp vô căn; viêm khớp dạng thấp và hen phế quản. Luận điểm  về  cơ  chế  bệnh  tâm-thể của Alexander được nhiều người chú ý. Dunbar (1954) cho rằng:  những người cùng bị một loại  bệnh thường có  cùng một  kiểu (profile)  nhân  cách. Theo Bà, có 8 loại bệnh phụ thuộc nhiều vào yếu tố  nhân  cách hơn  so  với  các  bệnh  khác, ví dụ như viêm khớp dạng thấp, tiểu đường, huyết áp cao, loạn nhịp tim ...

Cho đến nay vẫn có nhiều nghiên cứu sử dụng tư  tưởng của Dunbar  về  kiểu  nhân cách làm cơ sở. Quan  niệm  hiện  hành  về  kiểu  nhân  cách  A và  B là một ví dụ.

Engel (1954) đã phát triển chi tiết khái niệm căn nguyên đa yếu tố. Đến năm 1977 ông thiết lập mô hình tâm – sinh – xã hội (biopsychosocial) của bệnh. Theo quan điểm này, việc tìm kiếm và giải  thích  nguyên  nhân  của  bệnh  không  nên thuần túy theo một yếu tố  nào  mà là sự kết hợp của các yếu tố  về  cơ thể, tâm lí và xã hội.

 

Stress và miễn dịch

Hệ miễn dịch có chức năng bảo vệ cơ thể, chống lại sự tấn công của virus, vi khuẩn, vật kí sinh… hay các  kháng  nguyên  nói  chung.  Cơ  quan  sản  xuất  các  tế bào miễn dịch nằm rải rác khắp cơ  thể:  tuỷ  xương,  tuyến  ức,  hạch  lymphô,  lá lách, hạnh nhân và ruột thừa.  Do  nằm  ở  nhiều nơi  như  vậy  nên không  thể  đánh  giá được trực tiếp ảnh hưởng của thần kinh trung  ương  đến  hệ  miễn  dịch  mà người ta phải đánh giá một cách  gián  tiếp thông qua máu ngoại  vi.  Sự tuần hoàn  giúp cho máu vận chuyển các thành  tố miễn dịch từ các  cơ quan của hệ miễn dịch đến các khu vực bị viêm nhiễm. Các thành tố  của  hệ  miễn  dịch  tìm  kiếm  và chống lại, vô hiệu hoá các kháng nguyên ngoại  lai.  Chính  vì  vậy,  máu  ngoại  vi đóng vai trò quan trọng trong quá trình miễn dịch, chống viêm nhiễm.

Như đã biết, có 2 loại  xét  nghiệm  miễn dịch chính: xét nghiệm định lượng và xét nghiệm chức năng. Định lượng là nhằm xác định tỉ lệ các loại tế bào bạch cầu  khác nhau ở máu ngoại vi. Các tế bào bạch cầu được quan tâm nhiều hơn từ góc độ miễn dịch gồm: neutro, mono, lympho, trong đó có cả thực bào, lympho T và B

Xét nghiệm định lượng có ý nghĩa quan trọng. Để có  thể  có  được  đáp ứng miễn dịch với kháng nguyên, cơ thể cần có một số lượng tối thiểu các tế  bào  bạch cầu và có sự  cân  bằng  phù  hợp  giữa  các  loại  tế  bào  bạch cầu. Sự tăng hay giảm số lượng tế bào là những chỉ báo về sự thay  đổi  trong hệ  thống miễn dịch.  Miễn dịch còn có thể được chia làm 2  loại:  miễn dịch tế  bào  và  miễn dịch nội  tiết. Miễn dịch tế bào: các tế bào bạch cầu trực tiếp chống lại các kháng nguyên. Miễn dịch nội tiết: sản xuất ra các tế bào miễn dịch.

Trong cuộc sống của con người có rất  nhiều sự  kiện/biến cố vượt  quá  khả  năng giải quyết của cá nhân. Khi đó  xuất  hiện  stress,  cụ thể  đó  là  những  trạng thái tiêu cực về cảm xúc, nhận thức. Stress làm thay đổi hoạt  động của hệ  thống miễn dịch và hệ quả của nó là làm thay đổi khả  năng  nhiễm bệnh theo  hướng cá  nhân dễ bị nhiễm bệnh hơn.

Một loạt những nghiên cứu của Glaser và  CS.  vào  những năm  1980 cho  thấy ảnh hưởng của các kì thi đến chức năng  miễn dịch ở  các  sinh viên y khoa, cụ thể như giảm hoạt động của thực bào, giảm sản xuất tế bào lympho,  giảm  sản  xuất gamma interferon…

Stone và CS. nghiên cứu vai  trò  tích cực/tiêu cực  của  các  sự kiện đời sống đến miễn dịch nội tiết. Kết quả cho thấy những sự kiện dễ chịu kéo theo tăng tiết IgA (Immunoglobulin A) và ngược  lại,  những  sự  kiện  khó  chịu  làm  giảm  tiết IgA. Việc tăng tiết IgA liên quan đến sự kiện dễ chịu kéo dài đến 2  ngày  sau sự  kiện. Điều này cho thấy những sự  kiện vui  vẻ,  dễ  chịu cũng  ảnh  hưởng  tốt  đến sức khoẻ theo góc độ miễn dịch.

Ngoài ra cũng còn rất nhiều nghiên cứu khác về mối quan  hệ  giữa các  yếu tố  tâm lí đến miễn dịch, ví dụ như ở những cư dân sống gần nơi vụ nổ nhà máy điện nguyên tử; những người chăm sóc bệnh nhân Alzheimer (Kiecolt-Glaser và  CS., 1987; Irwin và CS., 1991; Esterling và CS., 1994).

Các nghiên cứu trong phòng thí  nghiệm  cho  thấy  những  người  có  hệ  thần kinh giao cảm hoạt động mạnh (dễ tăng nhịp tim, huyết  áp,  các hormon giao  cảm như epinephrine và norepinephrine) dễ có những thay  đổi  mạnh  trong  đáp  ứng miễn dịch khi phải đối mặt với các  tác  nhân gây stress và ngược  lại. Tuy nhiên sự liên quan giữa hoạt động của hệ thần kinh giao cảm và  miễn  dịch  vẫn  chỉ là sự tương quan mà chưa thể khẳng định được  cái  nào  là nguyên  nhân,  cái nào  là hệ quả.

Cũng có nhiều nghiên cứu đi theo hướng mối  quan  hệ  giữa các  yếu tố  xã hội với miễn dịch. Những người cô đơn, sống  li  thân  hoặc  li  dị, đáp ứng miễn dịch kém hơn, hoạt tính của thực bào bị  giảm  sút  (  Kiecolt-Glaser  và  CS.,  1984, 1985).

Một trong những ví dụ điển hình về cơ chế stress có thể làm cho cơ thể dễ bị bệnh, như đã đề cập ở trên, chính là mối quan hệ giữa stress và  chức  năng miễn  dịch. Cả stress cấp và  mạn  tính đều ảnh  hưởng  đến hoạt  động của hệ  miễn dịch. Sự ức chế hệ thống miễn dịch do stress làm suy giảm khả năng chống chọi  của cơ thể đối với những tác nhân gây bệnh hoặc phục  hồi  sau  chấn  thương.  Các  nhà nghiên cứu cũng đã xác định được sự suy giảm  khả năng gia tăng bạch cầu khi  có  tác nhân gây bệnh (Fisher và CS, 1987; Bachen và CS,  1992;  Zakowski  và  CS, 1994; Delahanty và CS, 1996). Suy giảm khả năng  sản  xuất  bạch  cầu  được  ghi nhận trong cả trường hợp có stress cấp tính hoặc mạn tính.

Các nhà nghiên cứu cũng đi sâu  nghiên  cứu  ảnh  hưởng  của  stress  đối  với thực bào- những bạch cầu hạt khổng lồ  có  chức  năng  tiêu diệt  rất  nhanh tế  bào virut hoặc ung thư. Bằng các xét nghiệm cận lâm sàng (invitro)  người  ta cũng đã phát hiện thấy ở những  người  có stress kéo dài, các thực  bào  tự nhiễm giảm cả về  số lượng và khả năng tiêu hủy tế bào  ung  thư  (Schedlowski  và  CS,  1993; Delahanty và CS 1996).

Sự thay đổi trong hệ miễn dịch  cũng  liên quan đến hoạt  động  của  hệ  thần  kinh giao cảm (ví dụ  như tăng  nhịp  tim, tăng  huyết áp, tăng  tiết  các catecholamine). Sự thay đổi các chỉ số của hệ miễn dịch, ví dụ như số lượng bạch  cầu và khả năng của chúng tiêu diệt các tế bào khác  liên quan  đến kích thích tim mạch (đặc biệt là những  thay đổi  về  huyết  áp  và  nhịp tim). Ngược  lại, những  yếu tố tâm lý như  khả  năng kiểm soát  bản thân,  tính bất  ngờ  của tác  nhân gây stress,  sự hỗ trợ của xã hội và khả năng phản  ứng/đáp  ứng  của  cá  nhân  cũng  có  ảnh hưởng đến hệ miễn dịch. Nhìn chung các tác nhân gây stress bất  ngờ  hoặc không kiểm soát được hoặc những hoàn cảnh ít có  sự trợ giúp xã hội  gây  ức  chế  miễn dịch nhiều hơn (Kennedy và CS, 1988; Barow và CS, 1990; Sieber và CS, 1992; Wiedenfeld và CS, 1990; Zakowski, 1995).

Bệnh truyền nhiễm được xem như là bệnh có tác nhân gây bệnh rõ rệt, ví dụ:  virut, vi khuẩn… Bệnh có khả năng truyền từ người này sang người khác. Cơ chế phòng vệ ban đầu chính là hệ thống miễn  dịch.  Hệ  thống  này  được  huy  động nhằm phá hủy, vô hiệu hoá các tác nhân gây bệnh. Do stress làm cho hệ thống miễn dịch có những lúc hoạt động bị yếu đi do đó khả năng chống đỡ của nó  (hệ miễn dịch) đối với các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm  cũng  bị  giảm  đi.  Các nghiên cứu thực nghiệm  và  tự  nhiên  đều cho  thấy stress liên quan  đến khả năng  dễ bị mắc bệnh truyền nhiễm (Cohen & Williamson, 1991;  McEwen  &Stellar, 1993; Kiecolt và CS, 1995; Biodi và CS, 1997). Trong  điều kiện tự nhiên, stress tăng càng làm cho dễ phát bệnh (Stone và CS, 1987; Kasl  và  cs,  1979;  Rahe, 1972). Stress cũng làm cho các bệnh truyền nhiễm tiễm ẩn dễ phát bệnh  hơn (Kiecolt và CS, 1987, 1988).

Các nghiên cứu tương quan cũng cho thấy những người có nhiều stress  trong cuộc sống là những người dễ bị cảm lạnh (Stone  và CS,  1992;  Cohen  và  CS, 1998).

 

Stress và ung thư

Mối quan hệ giữa stress với  miễn dịch và ung  thư phức  tạp hơn nhiều so  với mối quan hệ giữa stress và  nhiễm  khuẩn.  Nếu  bệnh  nhiễm  khuẩn  thường  khởi phát một cách cấp tính thì ngược lại  ung  thư  mang  tính chất  kéo  dài.  Người  ta  vẫn chưa xác định được rõ vai trò của hệ  miễn dịch trong việc  kiểm  soát  sự đột biến trong quá trình khối u  chuyển  từ  lành  tính sang  ác  tính và  sau đó  sang  di căn. Cũng có tác giả cho rằng có  sự liên quan  giữa  trầm  cảm  và  ung  thư  song cũng có tác giả phủ định điều đó (Hahl và CS, 1988, Kaplan và Reynolds, 1988; Costa và Metrae, 1989). Nhìn chung mới chỉ có những cứ liệu cho thấy tress liên quan đến tiến triển của ung thư và có khả  năng  liên quan  đến cả cuộc  sống cũng như yếu tố nhạy cảm chung, nguy cơ và chất lượng cuộc sống.

Stress và bệnh tim

Có nhiều tác giả đề cập đến sự ảnh hưởng của stress đối với bệnh động mạch vành. Sự ảnh hưởng này chủ yếu diễn ra thông qua hệ thần  kinh  giao  cảm.  Stress làm tăng tiết epinephrine và norepinephrine dẫn đến tăng hoạt hoá của các thụ thể beta và alpha (Kamarck và Jennings, 1991; Markovitz  và  Mathews,  1991).  Tăng hoạt hoá beta dẫn đến tăng nhịp tim, do đó tim phải co bóp nhiều hơn và huyết áp cũng tăng cao. Tăng hoạt hoá alpha làm co thành mạch (cả  động  mạch  và  tĩnh mạch) dẫn đến làm tăng cản trở ngoại vi nói  chung và  lưu thông máu  quay trở lại tĩnh mạch nói chung. Những điều này đều dẫn đến một đích:  tăng  huyết   áp (Guyton, 1991).

Stress cũng góp phần vào xơ  vữa  mạch  máu  và  những  quá  trình  khác  thông qua cơ chế ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thần kinh giao cảm.

Ngoài những liên quan đến động mạch vành, stress tâm  lý  cũng  có  thể  góp phần làm giảm việc cung cấp oxy cho tim, do  đó  góp phần  hạ thấp ngưỡng thiếu  máu cơ tim  hoặc  thúc  đẩy loạn nhịp  cấp thông qua  hoạt  hoá hệ  thần  kinh  thực  vật, làm tăng các cơn nhồi máu cơ tim. Các kết  quả  nghiên  cứu cũng cho  thấy những biến cố stress cấp tính, ví dụ như phát  biểu ở  chỗ  đông người,  các  tình huống gây tức giận có thể làm thay đổi điện tim và  dẫn  đến loạn nhịp hoặc  nhồi  máu cơ tim. Rối loạn loạn nhịp còn có thể liên quan đến trạng thái tâm lý chủ đạo của cá nhân. Ví dụ: các rối loạn trầm cảm  lo  âu,  nhân  cách typ A,  rối loạn stress sau nhồi máu (Camerou, 1996; Frasure-Smith và CS, 1995; Moser và Dracup, 1996; Rosenman, 1996; Tennant, 1987).

 

Stress và tiểu đường

Như trên đã đề cập, tất cả các hệ thống nội tiết, thần  kinh đều đáp ứng với  stress. Đối với người bị các rối  loạn nội  tiết, việc  kiểm soát hormon  là rất cần  thiết. Một khi stress làm rối  loạn sự kiểm soát  đó  thì  các  triệu chứng bệnh càng trở lên tồi tệ hơn do mất  cân bằng  hormon.  Bên cạnh  việc  ảnh  hưởng  trực tiếp  đến nồng độ hormon, stress cũng còn ảnh hưởng đến nhiều những yếu tố nguy cơ liên quan đến khởi phát bệnh, hoặc  làm  bệnh  trầm  trọng  thêm,  ví  dụ  như  ăn kiêng, dùng ma tuý, thực hiện chế độ điều trị.

Một trong những rối loạn nội tiết thần kinh phổ  biến là tiểu đường. Có  2 loại tiểu đường: typ I (phụ thuộc insulin) và  typ II (không phụ thuộc insulin). Cả 2 typ  này đều do lượng đường trong máu tăng cao, đều có các triệu chứng như mắt  mờ, mệt mỏi không rõ nguyên nhân hay khát nước và đi tiểu nhiều.

Nguồn năng lượng ban đầu cho các tế bào cơ thể chính là glucoza. Tuy nhiên glucoza được dùng tại các  tế  bào  phải  thông  qua tác  động của một  loại  hormon đó là insulin.

Ở typ I, hệ thống miễn dịch tấn công vào các  tế bào  sản xuất  insulin nằm ở  tuyến tụy, làm giảm mức độ bài tiết insulin và giảm năng lượng glucoza được sử  dụng ở các tế bào. Tiểu đường typ I thường khởi phát trước  tuổi  40, trong đó khoảng 50% khởi phát trước tuổi 20 (Tracey Avà CS, 2001).

Ngược lại, tiểu đường typ II khởi  phát muộn.  Tiểu  đường  typ  II  phát  triển một cách từ từ do các tế bào cơ thể kháng lại tác dụng của insulin dẫn  đến giảm lượng glucoza thâm nhập vào tế bào.

Stress không trực tiếp gây tiểu đường, tuy nhiên nó  có  thể  làm cho  cá nhân dễ bị bệnh hơn. Ví dụ, trong trạng thái stress, các  tế  bào  cơ  thể  cần  nhiều  năng lượng hơn. Với tiểu đường typ I, đòi hỏi như vậy có thể  vượt  quá  khả năng của  tuyến tuỵ, do vậy  bệnh có  thể  khởi  phát sớm hơn tương tự, đối với  tiểu đường typ II, các hormon stress có thể chi phối đến việc sử dụng insulin. Do đó có thể nhận thấy stress đóng vai trò là một yếu tố nguy  cơ đối  với  khởi phát tiểu đường cũng như có thể ảnh hưởng đến điều trị thông  qua  sự  ảnh  hưởng  đến  kiểm  soát glucoza.

Các hành vi liên quan  đến stress, ví  dụ như  ăn uống,  sử dụng  rượu, hút  thuốc  lá, ít hoạt động trí  tuệ, quên uống thuốc…  cũng ảnh  hưởng  đến việc tự chăm sóc  và đây cũng là những nguy cơ gây tăng lượng glucoza trong máu.

Stress có thể ảnh  hưởng  trực  tiếp đến việc  quản trị các triệu chứng bệnh. Như đã đề cập, stress có  thể  làm tăng lượng glucoza trong máu.  Với  tiểu đường typ I, cơ thể không sản xuất đủ lượng insulin cần thiết để xử lý lượng glucoza cao trong máu, còn trong typ II, do các tế bào  có  thể  từ  chối  insulin nên lượng glucoza  trong máu vẫn ở mức độ cao. Lượng glucoza cao trong  máu  dẫn  đến  nguy  cơ nhiễm axit xetonic và hôn mê (Guyton, 1991).

Như vậy có thể thấy stress đóng vai  trò  rất  quan trọng đối với  sức  khoẻ  của con người. Nó ảnh hưởng đến khởi bệnh cũng như diễn biến và kết thúc  (tốt hoặc xấu). Stress chính là khâu quan trọng giữa cơ  thể/cá  nhân  với  môi  trường; kích thích con người chống lại hoặc né tránh các tác nhân gây stress.

 

KẾT LUẬN

Stress ảnh hưởng đến mọi hệ thống của cơ thể và thông qua các hệ thống này, stress ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người.

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top