✴️ Trắc nghiệm tâm lí trong lâm sàng tâm thần (Phần 1)

KHÁI NIỆM CHUNG.

Trong các tài liệu tâm lí học, tâm thần học, thuật ngữ trắc nghiệm tâm lí thường được dùng tương đương với thuật ngữ test tâm lí. Có một số định nghĩa khác nhau về trắc nghiệm tâm lí:

Test tâm lí về cơ bản là một phép đo khách quan, đã được chuẩn hóa một mẫu hành vi (A. Anastasi, 1976).

Theo từ điển của các nhà tâm lí học Xô Viết: test là hệ thống các bài tập cho phép đo mức độ phát triển của một phẩm chất tâm lí nhất định (Petrovxki, 1990). Trong trường hợp này, test được định nghĩa như là một bộ các phương pháp.

Test cũng còn được định nghĩa như là một bài tập: test là một dạng bài tập cá nhân hoặc nhóm đã được chuẩn hoá, nó có thể định tính hoặc định lượng, có nghĩa là xác định sự hiện diện hoặc thiếu vắng một năng lực, kiến thức hoặc một kĩ năng nào đó, hoặc xác định mức độ hiện diện của chúng (J. Drever, 1979).

Như vậy có thể nhận thấy test được quan niệm trên cả 2 bình diện: là một phép đo cụ thể, một bài cụ thể, ví dụ test trí tuệ Raven và ở bình diện cao hơn, trắc nghiệm còn được hiểu là phép đo, thang đo nói chung.

Không phải bất kì một bộ câu hỏi nào, một bài tập nào đưa cho bệnh nhân làm đều là trắc nghiệm. Bản thân thuật ngữ trắc nghiệm/phép đo đã nói lên yêu cầu chuẩn (điều kiện chuẩn, quy trình chuẩn, điểm chuẩn); phải đảm bảo được độ tin cậy và độ hiệu lực/ứng nghiệm (xem thêm bài Các phương pháp nghiên cứu của Tâm lí Y học).

Trong lâm sàng tâm thần, trắc nghiệm tâm lí được sử dụng khá rộng rãi. Dưới đây chúng tôi giới thiệu một số trắc nghiệm thông dụng.

 

NHỮNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CÁC QUÁ TRÌNH TÂM LÍ.

Các phương pháp khảo sát trí nhớ:

Học thuộc 10 từ:

Học thuộc 10 từ là do A.R. Luria soạn thảo nhằm khảo sát trạng thái trí nhớ, tính tích cực của chú ý của người bệnh. Đây là phương pháp đơn giản, dễ thực hiện do đó nó cũng là phương pháp được sử dụng nhiều trong các phòng thực nghiệm tâm lí bệnh học của Liên Xô trước đây. Người hướng dẫn đọc cho người bệnh nghe 10 danh từ thông dụng, không gắn liền với nhau về nghĩa và âm (để tránh tạo liên tưởng kết nối các từ). Sau đó yêu cầu người bệnh tái hiện lại.

Bài tập làm từ 5 đến 10 lần, tùy theo mục đích nghiên cứu.

Ghi lại nhận xét về hành vi, thái độ, cảm xúc của người bệnh trong quá trình làm bài.

Lập đường cong học thuộc: trục tung biểu thị số lượng các từ tái hiện đúng; trục hoành chỉ thứ tự từng lần người bệnh nhớ lại các từ.

Phân tích các lỗi người bệnh mắc phải (từ bịa, từ có nghĩa gần...).

Nhận xét về mối quan hệ giữa thứ tự từ đã đọc với thứ tự từ tái hiện cũng như tần suất tái hiện các từ.

Đối với người khoẻ mạnh, đường cong học thuộc thường có dạng: 7 - 9 - 10 - 10 - 10. Nói chung với người khoẻ mạnh, thường sau lần thứ 3 là đã có thể nhớ đủ 10 từ.

Trong lâm sàng, tùy theo từng bệnh, có thể gặp một số dạng đường cong học thuộc khác nhau:

TTPL: với những trường hợp bệnh mới phát, đường cong học thuộc có thể giảm nhẹ (phải đến lần thứ 4 hoặc thứ 5 người bệnh mới nhớ được 9 hoặc 10 từ). Cũng có những trường hợp nhớ tốt như người bình thường. Đối với những trường hợp đã bắt đầu có dấu hiệu sa sút, đường cong học thuộc thường có dạng phẳng, có nghĩa là chỉ dao động trong khoảng 4 đến 6 từ. Một dấu hiệu có thể giúp phân biệt với những bệnh khác là người bệnh TTPL thường có sự giảm sút khả năng phê phán: đối với họ dường như nhớ được ít cũng không phải là “vấn đề”. Trong một số trường hợp thậm chí còn có hiện tượng phê phán test.

Các rối loạn liên quan đến stress: đường cong học thuộc có chiều hướng tăng nhưng chậm hơn so với bình thường và có tính dao động, có lúc đạt được 9 - 10 từ sau đó lại tụt xuống 6 - 7 từ. Điều này chủ yếu là do sự chi phối của cảm xúc kém ổn định. Bên cạnh đó cũng thường thấy hiện tượng tự phê phán quá mức, cho rằng trí nhớ của mình rất kém.

Đối với bệnh nhân động kinh tâm thần: đường cong học thuộc thường thấp, dao động trong khoảng 5 - 8 từ. Trong trường hợp đã có dấu hiệu sa sút, đường cong học thuộc có dạng phẳng, khoảng 4 - 6 từ. Khác với TTPL, bệnh nhân động kinh có thái độ phê phán với sự giảm sút trí nhớ của mình. Họ cố tái hiện song kém hiệu quả.

Trong trường hợp có các phương tiện kĩ thuật, có thể ghi âm lại những từ mà bệnh nhân tái hiện cũng như những bàn luận, nhận xét của bệnh nhân trong quá trình thực nghiệm.

Thang trí nhớ Wechsler:

Thang trí nhớ Wechsler (Wechsler Memory Inventory) do Wechsler thiết kế nhằm xác định chỉ số trí nhớ. Thang gồm 7 bài nhỏ (item) về các khía cạnh khác nhau của trí nhớ: thông tin cá nhân, định hướng chung, kiểm định tâm lí, ghi nhớ lô gic, nhớ dãy số, trí nhớ thị giác và trí nhớ liên tưởng. Kết quả của từng bài nhỏ được quy ra điểm.

Bài 1: Tính điểm 6 câu hỏi chung về cá nhân và xã hội. Mỗi câu trả lời đúng được tính 1 điểm. Điểm tối đa là 5.

Bài 2: Tính điểm 5 câu hỏi định hướng không gian và thời gian. Mỗi câu trả lời đúng được tính 1 điểm. Điểm tối đa là 5.

Bài 3: Có 3 bài tập nhỏ: đếm ngược ngược từ 20 - 1; đếm cách 3 từ 1 - 40; đọc chữ cái. Điểm tối đa cho mỗi bài nhỏ là 3; cho toàn bài 3 là 9 điểm.

Bài 4: Tái hiện 2 đoạn văn ngắn, mỗi đoạn có 23 đơn vị nghĩa. Nhớ đúng mỗi ý được tính 0,5 điểm. Điểm tối đa cho cả 2 đoạn văn là 23 điểm.

Bài 5: Tái hiện lần lượt từng dãy số với số lượng tăng dần theo chiều xuôi và chiều ngược. Điểm được tính theo dãy số dài nhất mà người bệnh nhắc lại đúng. Điểm tối đa của bài nhớ xuôi là 8 và nhớ ngược là 7.

Bài 6: Tái hiện thị giác 4 hình vẽ cho trước. Mỗi chi tiết tái hiện đúng được tính 1 điểm.

Bài 7: Nhớ liên tưởng 10 cặp từ gồm 6 cặp dễ và 4 cặp khó liên tưởng. Nếu tái hiện đúng trong vòng 5 giây, với mỗi cặp từ khó được 1 điểm; mỗi cặp từ dễ được 0,5 điểm. Bài được làm 3 lần và điểm được tính trung bình. Điểm tối đa là 21 điểm.

Tổng điểm của cả 7 bài được cộng thêm với điểm điều chỉnh theo lứa tuổi.

Từ điểm đã điều chỉnh, tra bảng để xác định chỉ số trí nhớ của bệnh nhân.

Trong một số trường hợp cần thiết, có thể tách riêng một vài bài để làm. Nhớ dãy số và tái hiện hình vẽ (một bài là nhớ thính giác, bài kia là nhớ thị giác) là 2 bài thường được sử dụng trong các nghiên cứu.

Khảo sát trạng thái chú ý:

Bảng Schulte:

Phương pháp gồm 5 bảng số, mỗi bảng có 25 số, từ 1 đến 25, nằm theo trật tự ngẫu nhiên. Người bệnh tìm và lần lượt đọc to các số theo chiều tăng dần ở từng bảng. Người hướng dẫn ghi vào phiếu thời gian người bệnh tìm đọc số.

Nhận xét về sự di chuyển chú ý trên cơ sở:

Thời gian trung bình đọc mỗi bảng số.

Xem xét sự biến thiên thời gian trong từng bảng (đánh giá qua khoảng cách 5 số) và qua các bảng số.

Một số phiên bản và cách làm khác:

Một phiên bản khác của phương pháp gồm 3 bảng số: 2 bảng 25 số và 1 bảng 49 số. Bảng 49 số gồm 25 số màu đen và 24 số (từ 1 đến 24) màu đỏ. Yêu cầu người bệnh tìm xen kẽ: cứ một số màu đen lại một số màu đỏ. Số đen theo chiều tăng dần, số đỏ theo chiều giảm dần. Thời gian di chuyển chú ý được tính bằng hiệu của thời gian đọc bảng 3 với thời gian đọc bảng 1 và bảng 2.

Tùy theo trạng thái bệnh lí, độ tuổi của bệnh nhân mà lựa chọn cách làm thích hợp.

Bảng Bourdon:

Bảng Buordon có 50 dòng, mỗi dòng 40 chữ cái (gồm 8 loại), các chữ này nằm theo một trật tự ngẫu nhiên. Phương pháp nhằm khảo sát sự phân bố, khả năng di chuyển chú ý và khả năng lao động trí tuệ của người bệnh.

Hướng dẫn người bệnh đọc và gạch các chữ cái theo yêu cầu. Thời gian làm bài tập là 10 phút, có đánh dấu từng phút.

Kết quả được phân tích qua các chỉ số:

Độ chính xác của từng phút (Cx) và trung bình trong 10 phút.

Tính năng suất từng phút (N) và trung bình của 10 phút.

Dựa trên sự biến thiên của chỉ số năng suất và độ chính xác, nhận xét:

Khả năng phân bố và di chuyển chú ý.

Khả năng lao động trí tuệ.

Các phiên bản và cách làm khác:

Bảng 50 dòng, mỗi dòng 40 chữ.

Bảng 40 dòng, mỗi dòng 30 chữ.

Bảng gồm các chữ cái in hoa.

Bảng gồm các cái chữ in thường.

Gạch một hoặc 2 loại chữ cái.

Gạch những chữ cái giống với chữ cái đầu dòng.

Làm bài trong 9 phút, chia ra 3 phút đầu, 3 phút giữa và 3 phút cuối.

Các phương pháp nghiên cứu tư duy:

So sánh khái niệm:

Hỏi lần lượt bệnh nhân những điểm giống nhau và khác nhau của các cặp khái niệm đã được chuẩn bị sẵn. Có khoảng 16 cặp từ trong đó có những cặp dễ so sánh, ví dụ: đồng và vàng; có những cặp từ khó so sánh, ví dụ: đói và khát; và có những cặp từ không so sánh được, ví dụ: chó sói và mặt trăng.

Phân tích các câu trả lời của người bệnh theo những dấu hiệu sau:

Chi tiết- cụ thể: sự so sánh của người bệnh căn cứ vào những đặc điểm cụ thể, bề ngoài hoặc vào từng chi tiết nhỏ nhặt của sự vật.

Khái quát giả: sự so sánh dựa vào đặc điểm ngẫu nhiên, không đi vào bản chất của sự vật. Thao tác so sánh dường như xuất phát từ 2 bình diện khác nhau của cặp từ.

Màu sắc cảm xúc: sự so sánh, bình luận xuất phát từ sở thích của cá nhân.

Sự phù hợp: bài tập được thực hiện trên cơ sở các dấu hiệu, đặc điểm điển hình, đặc trưng của sự vật, hiện tượng.

Trong lâm sàng tâm thần, những trường hợp có dấu hiệu suy giảm trí tuệ thường chỉ so sánh được những cặp dễ so sánh và cũng chỉ dựa trên những dấu hiệu cụ thể của sự vật. Ví dụ: chó và mèo giống nhau là cùng có lông. Những trường hợp suy giảm trí tuệ nặng thường không so sánh được vì thấy “chúng khác nhau mặc dù cùng có lông”. Những trường hợp có rối loạn tư duy theo dạng khái quát giả (thường gặp ở TTPL) có thể so sánh được cả những cặp từ không so sánh được. Tuy nhiên các thao tác so sánh của họ lại dựa trên những dấu hiệu ngẫu nhiên của sự vật. Ví dụ: “Con chim và dòng sông giống nhau ở chỗ cùng chuyển động, dòng sông thì chảy, trong con chim có các mạch máu, máu cũng chảy”.

Pictogram:

Phương pháp pictogram do các nhà tâm lí học Liên Xô xây dựng, lúc đầu dùng để nghiên cứu trí nhớ gián tiếp. Tuy nhiên trong quá trình ứng dụng trong lâm sàng, kết quả của nó còn cung cấp nhiều thông tin về các thao tác tư duy cũng như các phản ứng cảm xúc của bệnh nhân. Phương pháp được sử dụng cho bệnh nhân có trình độ văn hoá từ lớp 7 trở lên.

Bệnh nhân được yêu cầu nhớ khoảng 16 cụm từ bằng cách vẽ ra giấy một hình gì đó tùy ý để dễ nhớ từ. Sau một giờ, căn cứ vào những hình vẽ đó yêu cầu bệnh nhân tái hiện từ.

Trong danh mục các cụm từ, có những cụm dễ biểu thị bằng hình vẽ, ví dụ, lao động nặng và có những cụm từ khá trừu tượng, khó thể hiện bằng hình như: hi vọng, hạnh phúc và cũng có những cụm từ dễ gây ra các phản ứng cảm xúc như câu hỏi độc ác, em bé đói.

Kết quả được phân tích theo các chỉ số:

Các liên tưởng, thao tác tư duy: dạng khái quát, khái quát giả hay hoàn cảnh - cụ thể.

Các phản ứng cảm xúc thể hiện trong quá trình làm bài.

Kết quả nhớ gián tiếp có thể so sánh với kết quả nhớ trực tiếp thể hiện ở bài học thuộc 10 từ.

Tính phê phán của nhân cách: phàn nàn về giảm sút khả năng làm việc hay ngược lại, phê phán bài tập.

Với người bình thường, trình độ học vấn từ lớp 7 trở lên, việc thực hiện pictogram không mấy khó khăn. Hình vẽ khá đa dạng, nội dung giải thích chủ yếu là khái quát. Cá biệt có trường hợp xuất hiện khái quát giả nhưng chỉ mang tính chất “ngẫu nhiên” sau đó lại trở về qũy đạo thông thường. Hình vẽ của họ thường có mối liên hệ cơ bản với nội dung khái niệm. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho sự tái hiện sau 1 giờ. Do nội dung hình vẽ có liên quan mật thiết với nội dung từ cần nhớ nên sau 1 giờ thì người bình thường dễ dàng tái hiện đúng khoảng 13 - 14 từ, những từ còn lại cũng là sát nghĩa.

Trong điều kiện lâm sàng:

Các rối loạn liên quan đến stress: trong bệnh cảnh lâm sàng của các rối loạn liên quan đến stress, yếu tố tâm lí chiếm vị trí chủ đạo. Yếu tố này cũng chi phối đến kết quả pictogram của họ. Hình vẽ thường là hình phức tạp, các tình huống thường có màu sắc cảm xúc rõ nét. Có những trường hợp thể hiện tình huống có bản thân bệnh nhân tham gia, hoặc một hoàn cảnh có liên quan đến kinh nghiệm cá nhân của bệnh nhân.

Kết quả pictogram ở bệnh nhân TTPL thường khá đa dạng. Về hình vẽ có thể gặp những dạng sau: hình đơn giản nhưng lại mang tính dập khuôn, định hình (stereotype). Định hình thường gặp trong số này là người hoặc mặt người. Hình không nội dung: những kí hiệu, đường nét. Những hình này không liên quan gì với nội dung từ mặc dù bệnh nhân vẫn khẳng định rằng vẽ hình để nhớ từ. Zeygarnik gọi những thao tác dạng này là khái quát giả. Những trường hợp đang có hoang tưởng rầm rộ, nội dung của hoang tưởng cũng thường được phóng chiếu vào hình vẽ, dạng như những phát minh vĩ đại (hoang tưởng phát minh) hay những vật thể siêu nhiên hay kì quái.

Động kinh tâm thần: nét điển hình của động kinh tâm thần là suy giảm trí tuệ và biến đổi nhân cách theo kiểu nhân cách động kinh (tỉ mỉ, cụ thể, chi tiết, tủn mủn, bảo thủ,…). Những đặc điểm này cũng được phản ánh trong pictogram. Nội dung hình vẽ: có thể gặp những bộ phận hoặc chi tiết nhỏ. Cũng có những cụm từ được biểu đạt bằng hình phức tạp song khá rườm rà các chi tiết, hoặc có thể là một hoàn cảnh cụ thể, có địa chỉ.

Các phương pháp khảo sát cảm xúc:

Thang trầm cảm Hamilton:

Thang trầm cảm Hamilton là một dạng phỏng vấn có cấu trúc. Thang gồm 21 mục về các triệu chứng cơ thể và tâm lí của trầm cảm. Trong mỗi mục có liệt kê một số định hướng chính để nhà lâm sàng hỏi chuyện. Tùy theo mức độ nặng nhẹ của triệu chứng mà cho điểm.

Xác định mức độ trầm cảm dựa theo tổng số điểm của bệnh nhân.

Thang trầm cảm Beck:

Thang trầm cảm Beck là thang tự đánh giá. Thang gồm 13 mục, trong mỗi mục mô tả một triệu chứng trầm cảm ở các mức độ khác nhau. Người bệnh tự lựa chọn mức độ triệu chứng phù hợp với trạng thái của mình.

Mức độ trầm cảm được xác định theo tổng điểm của các mục.

Thang lo âu Spielberger:

Theo Spielberger, cần phải phân biệt giữa trạng thái lo âu với nét nhân cách lo âu. Với những người có nét nhân cách lo âu tăng đậm, các kích thích môi trường ở mức độ vừa cũng đã có thể gây nên trạng thái lo âu. Ngược lại, đối với những người có điểm số thấp về nét nhân cách lo âu thì phản ứng lo âu cũng thấp hơn. Do vậy Spielberger đã thiết kế thang đo lo âu thành 2 phần: đo trạng thái lo âu (hiện tại) và đo nét nhân cách lo âu.

Một điểm khác biệt nữa trong thang lo âu Spielberger là nó còn được sử dụng để đo stress. Với phần thứ nhất (đo trạng thái lo âu), nếu điểm dưới 64 thì không có lo âu (bệnh lí) mà đó chỉ là trạng thái stress ở các mức độ khác nhau. Với phần 2, nếu điểm số trên 64 thì đó mới được coi là có dấu hiệu bệnh lí. Nếu kết quả dưới 64 thì được xem là sự thể hiện của tinh thần trách nhiệm.

Cách thực hiện: yêu cầu người bệnh đọc bảng in sẵn các câu hỏi của thang Spielberger (gồm 2 phần tách riêng) và lựa chọn mức độ phù hợp với mình ở từng câu.

Xử lí kết quả dựa theo số điểm tổng trong từng phần:

Có lo âu hay không?

Nếu không có lo âu thì phân tích theo trạng thái stress.

Thang lo âu Zung:

Thang lo âu Zung cũng là thang tự đánh giá. Ưu điểm của nó là ngắn gọn, xử lí khá đơn giản nên được ưa dùng trong lâm sàng. Tuy nhiên do đơn giản nên một số tác giả khuyên chỉ nên dùng để khảo sát sàng lọc.

Thang gồm 20 câu nhằm đánh giá tình trạng lo âu. Bệnh nhân lần lượt đọc từng câu và lựa chọn mức độ phù hợp với mình.

Dựa vào tổng số điểm để đánh giá trạng thái lo âu của bệnh nhân.

 

CÁC TRẮC NGHIỆM TRÍ TUỆ.

Trắc nghiệm trí tuệ Raven:

Trắc nghiệm trí tuệ Raven xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1936. Theo Raven (người Anh) – tác giả của trắc nghiệm - đây là phương pháp đo năng lực tư duy trên bình diện rộng nhất. Cơ sở lí luận của trắc nghiệm chính là lí thuyết về yếu tố g trong cấu trúc trí tuệ. Trắc nghiệm Raven còn được gọi là “Trắc nghiệm khuôn hình tiếp diễn” (Progressive matries).

Do trắc nghiệm thuộc vào loại phi ngôn ngữ, dễ sử dụng, dễ xử lí kết qủa nên mặc dù có những hạn chế nhất định (phổ đo không rộng, kém nhạy đối với những trường hợp suy giảm trí tuệ rõ rệt...), trắc nghiệm trí tuệ Raven vẫn được ưa dùng ở nước ta.

Toàn bộ trắc nghiệm có 60 bài, được chia thành 5 nhóm, mỗi nhóm 12 bài. Trong mỗi nhóm, bài sau khó hơn bài trước, còn trong toán trắc nghiệm, nhóm sau khó hơn nhóm trước.

Nguyên tắc cấu tạo các khuôn hình:

Nhóm A: dựa theo nguyên tắc tính trọn vẹn, liên tục của cấu trúc.

Nhóm B: theo nguyên tắc giống nhau giữa các cặp hình.

Nhóm C: sự thay đổi tiếp diễn trong các cấu trúc.

Nhóm D: sự đổi chỗ của các hình.

Nhóm E: sự chia tách hình tổng thể thành các bộ phận.

Trắc nghiệm có thể dùng cho cá nhân hoặc cho nhóm. Thời gian không hạn chế. Từ kết quả mà cá nhân thực hiện được, tra bảng để xác định chỉ số IQ. Đối với trẻ em dưới 16 hoặc người trên 65 có phiên bản riêng với 36 bài và có màu.

Trắc nghiệm trí tuệ Wechsler:

Kể từ khi xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1939, thang trí tuệ Wechsler đã trải qua nhiều lần sửa đổi, hoàn chỉnh và mở rộng.

Ban đầu thang có tên “The Wechsler - Bellevue Intelligence Scale”. Khác với thang Stanford - Binet sắp xếp các bài tập theo độ tuổi, thang trí tuệ Wechsler- Bellevue đi vào các tiểu test (subtest). Ví dụ: các bài tập số học được đưa vào một nhóm và sắp xếp theo thứ tự khó dần.

Kết quả trắc nghiệm được xử lí theo 2 thang: thang thực thi (Performance Scale) - có 5 tiểu test - và thang sử dụng ngôn ngữ (Verbal Scale) - có 6 tiểu test. Như vậy, ngoài việc có thể tính chỉ số IQ tổng quát, có thể tính được IQ của từng phần riêng biệt.

Sau lần chỉnh lí năm 1955, trắc nghiệm có tên “The Wechsler Adult Intelligent Scale” – WAIS.

Năm 1981, thang lại được thay đổi: WAIS-R. Phiên bản này dựa trên mẫu chuẩn theo điều tra dân số của Hoa Kì năm 1970. Mẫu được lựa chọn gồm 1.880 người của 9 nhóm tuổi khác nhau. Năm 1997, trắc nghiệm trí ruệ Wechsler được sửa đổi, chuẩn hoá lại và là WAIS-III.

Lúc đầu, thang Wechsler chỉ có phiên bản dành cho người lớn. Năm 1949 mới xuất hiện WISC (The Wechsler Intelligence Scale for Children). Trắc nghiệm này dựa trên mẫu chuẩn gồm 2.200 trẻ em Mĩ da trắng, theo tỉ lệ điều tra dân số năm 1940. Do có những tranh luận khi đo IQ ở trẻ em thuộc các nhóm sắc tộc thiểu số hoặc con em của những gia đình thuộc tầng lớp dưới, phiên bản đã được chuẩn hoá vào năm 1974: WISC-R. Năm 1991 xuất hiện WISC-III và năm 2003 xuất hiện WISC -IV.

Trong WAIS-R có 11 tiểu test, được chia thành 2 nhóm: các tiểu test dùng lời và các tiểu test thực thi.

Mô tả trắc nghiệm WAIS-R:

Các tiểu test dùng lời:

Kiến thức chung (General Information). 29 câu hỏi xắp xếp theo mức độ khó tăng dần. Ví dụ: cao su được lấy từ đâu? Nhiệt kế là gì?

Hiểu biết chung (General Comprehention). Bài tập có 14 câu hỏi nhằm xác định năng lực hiểu ý nghĩa các thành ngữ, năng lực phán đoán, hiểu các chuẩn mực đạo đức, xã hội. Điểm được cho tùy theo mức độ khái quát của câu trả lời của đối tượng.

Số học (Arithmetic): tiểu test có 14 bài tập số học để đánh giá năng lực tính toán. Đối tượng được yêu cầu thực hiện các phép tính nhẩm và trả lời miệng. Điểm được cho tùy theo thời gian giải đúng từng bài.

So sánh (Similarities): đối tượng được yêu cầu so sánh sự giống nhau của 13 cặp khái niệm. Điểm được cho tùy theo mức độ khái quát của câu trả lời.

Nhớ dãy số (Digit Span): nội dung của bài tập gồm 2 phần: nhớ dãy số xuôi và ngược. Điểm được cho theo tổng số các số nhớ được sau cả 2 lần.

Vốn từ (Vocabulary): toàn bộ bài tập có 40 từ. Đối tượng có nhiệm vụ giải thích các từ này. 10 từ đầu là những từ thông thường, được sử dụng hàng ngày. 10 từ tiếp theo có mức độ trừu tượng vừa phải. Những từ sau cùng có mức độ trừu tượng cao nhất, đòi hỏi đối tượng phải có trình độ học vấn nhất định mới có thể giải thích được rõ ràng. Điểm được cho tùy theo mức độ khái quát của câu trả lời.

Các tiểu test thực thi:

Ghi kí hiệu (Digit Symbol). Có 9 kí hiệu khác nhau đi theo các số từ 1 đến 9. Đối tượng có nhiệm vụ ghi các kí hiệu tương ứng vào 100 ô có số cho trước. Thời gian cho phép là 90 sec. Điểm được tính theo các ô điền đúng.

Nét thiếu (Picture Completion): đối tượng được lần lượt quan sát 21 bức vẽ và phải chỉ ra nét thiếu trong mỗi bức vẽ đó.

Xếp khối (Block Design): nhiệm vụ của đối tượng là sắp xếp các khối có 2 màu đỏ và trắng khác nhau theo hình đã cho trước. Điểm số phụ thuộc vào tường mẫu và thời gian thực hiện.

Sắp xếp trật tự các bức tranh (Picture Arrangement): có 8 bộ tranh về 8 chủ đề khác nhau. Yêu cầu đối tượng phải xắp xếp theo trật tự logic của từng bộ. Điểm được tính theo từng bộ và thời gian thực hiện.

Ghép hình (Object Assemli): 4 hình được cắt rời làm nhiều mảnh. Đối tượng có nhiệm vụ phải ghép các mảnh cắt đó lại với nhau để tạo thành hình đã cho. Ví dụ: hình bàn tay hay hình con voi.

Điểm thô ban đầu được quy thành điểm chuẩn (đã có bảng tính sẵn). Từ điểm tổng của toàn trắc nghiệm, tra bảng để xác định chỉ số IQ. Cũng từ điểm tổng của từng phần, có thể xác định được IQ phần lời và IQ thực thi.

Ưu thế của thang Wechsler là ở chỗ nó có những phần dành cho người chậm phát triển trí tuệ, có bản dành cho người lớn và cho trẻ em. Tuy nhiên việc thực hiện nó đòi hỏi khá nhiều thời gian và kĩ năng hướng dẫn, theo dõi. Mặt khác, việc chuyển ngữ và thích ứng nhằm xác lập chuẩn trong điều kiện Việt Nam cũng không đơn giản. Do thang Wechsler được đưa vào nước ta từ những nguồn khác nhau, cách chuyển ngữ của từng tác giả cũng khác nhau nên chúng ta cũng chưa có một test trí tuệ thống nhất chung

 

Xem tiếp: Trắc nghiệm tâm lí trong lâm sàng tâm thần (Phần 2)

 

Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh

  facebook.com/BVNTP

  youtube.com/bvntp

return to top