Trong y học cổ truyền, gừng tươi được gọi là sinh khương, là một trong những vị thuốc tân ôn giải biểu, có vị cay, nóng, mùi thơm, tính ấm.
Sinh khương quy vào kinh phế, vị, tỳ, có tác dụng phát tán phong hàn, chữa cảm mạo phong hàn, ngạt mũi, ho có đờm, nôn mửa, làm ấm dạ dày trong các trường hợp bụng đầy chướng, ăn không tiêu, khí huyết ngưng trệ, chân tay lạnh. Ngoài ra dùng làm thuốc kích thích tiêu hóa, tăng bài tiết, sát trùng, hành thủy, giải độc ngứa do bán hạ, cua cá, chim thú độc.
Ngày dùng 4-8 g dưới dạng thuốc sắc uống. Ngoài ra còn dùng làm thuốc xoa bóp và đắp ngoài chữa sưng phù và vết thương.
Tía tô 10g, kinh giới 10g, bạc hà 10g, bạch chỉ 6g, địa liền 6g, vỏ quýt 6g, sinh khương 3 lát. Sắc uống ngày 1 thang trong 3 ngày.
Uống nước sắc kinh giới hoà với nước cốt gừng. nước măng vòi (lấy vòi tre hơ lửa vắt lấy nước cốt) và rượu, các thành phần với liều lượng bằng nhau.
Gừng sống, củ chóc, mỗi vị 320g. Sắc uống làm 2 lần
Gừng sống giã lấy nước cốt (1 thìa) tròn mật ong (1 thìa). Đun nóng, uống dần ít một.
Nước gừng sống. nước chanh, sữa người. đồng tiện, đều I chén. Hảm ấm và uống. cho đến khì khỏi
Rễ lá lốt, gừng tươi đun nước ngâm chân, có thể cho thêm ít muối khi ngâm.
Gừng tươi rửa sạch, loại bỏ vỏ, đem xay nhuyễn và đem nấu với đường kính. Bảo quản trong lọ thủy tinh dùng dần. Khi bị tụt huyết áp, cảm lạnh có thể pha với nước gừng ấm để uống.
Gừng khô hay còn được gọi là can khương, có vị cay, mùi thơm hắc, tính nóng, quy vào kinh tâm, phế, tỳ, vị, trong đông y là một vị thuốc ôn trung (chữa bệnh về dạ dày) và hồi dương.
Ôn trung khử hàn, hồi dương thông mạch. Đồng thời có tác dụng cầm máu, chỉ ho. Can khương chữa đau bụng lạnh, đầy trướng không tiêu, tả, chân tay giá lạnh, mạch nhỏ, đàm ẩm, ho suyễn và thấp khớp.
Ngày dùng 4 – 20g dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.
Can khương tán bột ra 4 lượng kẹo mạch nha, xắt lát rửa qua nấu cho tan ra, viên bằng hạt ngô đồng, uống lúc đói với cơm, ngày 30 viên.
Can khương Truật, Phục linh, Nhân sâm, Cam thảo.
Can khương, Hoàng kỳ, Cam thảo, Bạch thương, Mạch môn, Sinh địa, Nhân sâm, Thăng ma.
Can khương, Quất bì, Sa nhân, Hoắc hương, Tô mộc, Mộc hương, Bỏ Mộc hương gia, Mộc qua trị được sình bụng do trúng ác khí.
Can khương, Quất bì, Nhân sâm.
Can khương, Quất bì, Truật, Bối mấu, Phục linh.
Can khương, Nhân sâm, Truật, Quế chi, Quất bì.
Can khương, Nhân sâm, Truật, Cam thảo.
Can khương, Nhân sâm, Bán hạ, các vị bằng nhau, tán bột, trộn nước gừng làm viên, mỗi lần uống 6-9g, ngày 3 lần (Can Khương Nhân Sâm Bán Hạ Hoàn – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Can khương 6g, Tông bì và Ô mai đều 9g. Tất cả đốt cháy đen tán bột uống (Như Thánh Tán- Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Can khương vị đại cay nên người âm hư có nhiệt, có thai không nên dùng. Vì cay nên tán khi tẩu huyết, uống lâu tổn hại tới phần âm, thương tổn mắt. Ngoài ra những chứng âm hư nội nhiệt, ho do âm hư, mửa ra máu kèm biểu hư có nhiệt, tự ra mồ hôi, mồ hôi trộm, ỉa ra máu, mửa do nhiệt, đau bụng do hỏa nhiệt đều không nên dùng. Vị này ghét Hoàng cầm, Hoàng liên, Dạ minh sa, Tần tiêu làm sứ cho nó (Bản Thảo Kinh Sơ).
Củ gừng đồ cho chín rồi để trong mát cho đến khô, sao lửa to cho xém đen gọi là can bào khương. Bào khương có vị cay, đắng, tính đại nhiệt, quy vào 6 kinh tâm, phế, vị, đại tràng, thận.
Làm ấm Tỳ và Vị, trừ hàn. Phòng dương suy, làm ấm phế và trừ đàm thấp.
Ngày dùng 3-10 g.
Bào khương 2 chỉ rưỡi. Chích thảo 1 chỉ 2 phân. Dùng 1 chén rưỡi nước sắc còn phân nửa uống.
Bào khương tán bột khi cần dùng uống 3 chỉ với rượu nóng. Dùng Can khương, Quế chi và Tử tô có thể ấm bên trong mà làm cho ra mồ hôi.
Bào khương tán bột, mỗi lần uống 2-4g với nước nóng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Bào khương 1 lượng đâm sao cho nóng đắp trên bụng đến Đơn điền (Dưới rốn đắp 1 vùng đường kính chừng 2-5cm). Dùng vải rịt lên chừng 1-2 giờ (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Chế biến vị thuốc từ gừng này chế biến bằng cách thái lát dày gừng khô, sao cháy đen tồn tính.Thán khương có vị cay, mùi thơm hắc, tính ấm.
Ôn trung, trục hàn, hồi dương, thông mạch.
Thán khương chữa đau bụng lạnh, máu hàn, tay chân lạnh, nhức mỏi, tê bại, băng huyết.
Liều dùng: ngày dùng 4-8 g dưới dạng thuốc sắc.
Dùng Can khương (đốt cháy đen tồn tính) đem tán bột, uống mỗi lần 2-4g với nước nóng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Khương thán (gừng đốt cháy) và Cam thảo đều 6g. Sắc uống với đồng tiện (Can Khương Cam Thảo Thang-Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Ngoài các vị thuốc trên, nhân dân cũng sử dụng vỏ gừng, lá gừng làm thuốc trong dân gian. Vỏ gừng có vị cay, tính mát chữa phù thũng. Là vỏ củ gừng phơi khô, cùng bốn loại vỏ khác như trần bì (vỏ quýt), phục linh bì (vỏ nấm phục linh), đại phúc bì (vỏ cau), ngũ gia bì (vỏ cây chân chim). Phối thành thang ngũ bì ẩm nổi tiếng chuyên chữa phù thũng có thể dùng được cho cả phụ nữ có thai bị sưng hai chân. Ngoài ra, lá gừng bọc thức ăn còn giúp ngừa ôi thiu.
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh